Số phận ly kỳ khối kho báu khủng của Triều Nguyễn sau biến động ngày 5/7/1885

Lịch sử hình thành và phát triển của một quốc gia gắn liền với những cuộc tương tranh liên miên với các quốc gia khác, thậm chí cả trong nội bộ quốc gia. Thông thường, trong cuộc chiến, bên nào thắng cũng cướp phá, tịch thu một phần hay toàn bộ kho tàng của bên bại trận.

Các thỏi vàng và tiền trong kho báu triều Nguyễn

Kho báu chính là chiến lợi phẩm bậc nhất của các nhà nước phong kiến ngày xưa. Thời nhà Lý, năm 1044, vua Lý Thái Tông nhiều lần mang quân đi đánh nước Chiêm Thành ở phía nam, đưa về hàng ngàn tù binh và nhiều vàng bạc, châu báu (Đại Việt sử ký toàn thư).

Thời Trần, năm 1371, quân Chiêm Thành sang đánh nước ta, đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, ngọc lụa đem về, vua Trần Nghệ Tông phải đi thuyền lánh giặc. Tám năm sau (1379), đề phòng quân Chiêm lại tấn công và cướp phá kho báu, nhà Trần sai quân dân chở tiền đồng vào giấu ở núi Thiên Kiện (H.Thanh Liêm, Hà Nam) và một tầng tháp ở Lạng Sơn.

Một trong những cuộc đánh chiếm kho báu lớn nhất đã diễn ra dưới đời vua Lê Thánh Tông (1441 – 1497). Năm 1471, nhà vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, tấn công vào thành Chà Bàn, bắt sống vua Chiêm là Trà Toàn và niêm phong toàn bộ của cải, kho tàng.

Đồng tiền Song long thời Thiệu Trị (1841 – 1847)

“Kho dự trữ bao la” ở Huế

Dưới thời các chúa Nguyễn, khi cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn kéo dài hơn 30 năm (1771 – 1802), ba anh em Tây Sơn đã lấy kinh đô cũ của Chiêm Thành là Vijaya (Chà Bàn hay Đồ Bàn, nay thuộc tỉnh Bình Định) làm bản doanh của phong trào và không ít của báu của người Chiêm đã rơi vào tay họ.

Một người Pháp duy nhất có mặt trong lãnh địa dưới quyền kiểm soát của nhà Tây Sơn trong khoảng thời gian giữa những năm 1770 và 1786 là giáo sĩ Jean Pierre Joseph d’Arcet có kể lại trong một lá thư rằng trong một lần rút quân từ Đồng Nai về cứ địa Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc ghé lại chỗ ở của một vị tiểu vương Chiêm Thành, đòi xem những của báu của vương quốc này. Trong những đồ trân quý ông được xem, có một cây quyền trượng bằng vàng, chạm trổ tinh vi, với hình 14 chiếc sừng, tượng trưng cho 14 thế hệ đã nắm quyền cai trị kể từ ngày vương quốc này được thành lập. Nguyễn Nhạc giữ lấy cây quyền trượng và nói với vị tiểu vương Chiêm Thành mới chừng 10 – 12 tuổi mà ông coi như một người con: “Ta sẽ trả nó lại cho con”. Tất nhiên, của báu chẳng bao giờ được hoàn lại khổ chủ và vị tiểu vương kia phải ngậm đắng nuốt cay gật đầu ưng thuận, vì dù sao, mạng sống cũng quý hơn cây quyền trượng (theo George Dutton – The Tây Sơn uprising (Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn), bản dịch của Lê Nguyễn, NXB Tổng hợp TP.HCM – 2019, trang 182 – 183).

Dutton cũng ghi nhận rằng trong khoảng thời gian kể trên, quân Tây Sơn đã tịch thu nhiều trang phục cùng biểu chương của các triều đại Chiêm Thành và những bảo vật đó đã góp phần vào việc long trọng hóa sinh hoạt cung đình cùng các nghi thức của nhà Tây Sơn.

Sang thời Nguyễn, sau khi thống nhất sơn hà vào năm 1802, người khai sáng triều Nguyễn là vua Gia Long (1762 – 1820) đã chấn chỉnh việc đúc tiền và các quý kim (vàng, bạc…). Việc đúc tiền được giao cho một cơ quan có tên là Bảo tuyền cục, việc quản lý vàng thuộc độc quyền của Nội vụ phủ, đặt dưới sự kiểm soát của Nội các gồm thành viên là người trong hoàng tộc và quan chức ở Bộ Hộ. Riêng việc đúc bạc được giao cho các xưởng đúc tại các trấn (sau là tỉnh).

Khối lượng vàng bạc đúc ra vào nửa đầu thế kỷ 19 là một phần không nhỏ trong kho báu triều Nguyễn được nhắc tới trong loạt bài này.

Vào thập niên 1860, cùng với việc đánh chiếm Nam kỳ lục tỉnh, thực dân Pháp phát triển kinh tế khu vực phía nam VN và bắt đầu dòm ngó khối của cải do triều đình Huế nắm giữ. Tháng 1.1885, Thống đốc dân sự đầu tiên của vùng đất Nam kỳ lục tỉnh là Charles le Myre de Vilers đề cập đến một “kho dự trữ bao la” ở Huế. Ông ta đánh giá thấp khối lượng vàng do triều đình cất giữ, cho rằng chỉ trị giá tương đương 2 triệu franc, nhưng nhiều tài liệu sau đó đã ước tính số vàng này trị giá đến 7 triệu franc. Trong khi đó, de Vilers lại nâng cao quá đáng khối lượng bạc với trị giá 11 triệu franc, thay vì giá trị thực sự của kim loại này chỉ vào khoảng 6,5 triệu franc. Lý do là vào thập niên 1880, chưa ai ước tính được khối lượng vàng bạc mà vua Minh Mạng (1820 – 1841) đã chôn giấu tại nhiều nơi trong kinh thành, về sau bị người Pháp phát hiện một phần.

Kho báu trên đường di tản

Từ ngày thất thủ kinh đô 5.7.1885 cho đến khi vua Hàm Nghi bị Pháp bắt ngày 2.11.1888, kho báu triều Nguyễn ước lượng trị giá nhiều triệu franc đã không còn gì.

Tác phẩm ‘Le trésor de Huê’ của François Thierry

300.000 nén bạc được đưa trước lên Quảng Trị

Ngay trong ngày thất thủ kinh đô 5.7.1885, trên đường di tản lên phía bắc, Phụ chánh Nguyễn Văn Tường đã quay về Huế để hợp tác với Pháp nhằm chấn chỉnh việc triều chính. Ông ta báo cho Khâm sứ Huế Palasne de Champeaux biết rằng vào đầu tháng 6.1885, Tôn Thất Thuyết đã cho chuyển đến căn cứ địa Tân Sở (Quảng Trị) – nơi ông Thuyết dành làm một “kinh đô” thứ hai khi có biến, một khối lượng của cải kếch xù là 300.000 nén bạc chứa trong gần 600 rương. Mấy hôm trước ngày 5.7, ông Thuyết định đưa tiếp lên Tân Sở khối lượng bạc còn lại, khoảng 650.000 – 700.000 nén, song do có sự ngăn trở của ông Tường mà việc này chưa xảy ra trên thực tế (theo văn khố của Tòa Khâm sứ Pháp ở Huế).

Những gì Nguyễn Văn Tường kể với de Champeaux không bao gồm vàng, tiền hay các quý kim khác. Tuy nhiên, theo một điện tín do tướng de Courcy gửi về Paris, ước lượng số vàng và bạc trong kho báu triều Nguyễn trị giá khoảng 9 triệu franc Pháp. Về sau, theo một tài liệu do Nha Tiền tệ Pháp công bố, khối lượng vàng do Pháp tịch thu được lên đến hơn 10.000 thỏi với nhiều kích thước khác nhau.

Trở lại ngày binh biến 5.7.1885, biết không lật ngược được tình thế, Tôn Thất Thuyết thu xếp đưa vua Hàm Nghi mới 14 tuổi cùng nhiều quan binh rời khỏi cung điện vào khoảng 7 giờ 30. Ngoài mấy trăm binh lính hộ vệ, theo đoàn xa giá còn có nhiều dân phu khiêng vác các rương vàng bạc và của cải khác.

Sau một thời gian ngắn dừng chân tại Tân Sở, Tôn Thất Thuyết nhận thấy nơi đây không thể là căn cứ kháng chiến lâu dài nên quyết định đưa vua Hàm Nghi ra Bắc. Tuy nhiên, lộ trình ra Bắc bị quân Pháp án ngữ, đoàn xa giá dự định theo ngả Lào, rồi cuối cùng vẫn phải quay lại Hà Tĩnh và Quảng Bình. Chính vì sự bất ổn trong hành trình di tản để tìm ra một kế sách lâu dài mà một phần kho báu triều Nguyễn đã bị rơi rớt trên đường, để rồi vào những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến gian khổ, vua Hàm Nghi và các nhóm nghĩa quân hoạt động quanh ông vẫn phải sống trong sự cùng cực.

Vua Hàm Nghi lúc vừa đi đày đến Algérie

Kho báu rơi rớt dọc đường di tản

Theo các tài liệu do người Pháp ghi lại, với độ chênh nhất định giữa các số liệu về khối lượng kho báu (vàng, bạc, tiền…), ngày 19.7.1885, khi quyết định ra phía bắc qua ngả Thanh Hóa, Tôn Thất Thuyết chỉ mang theo mấy rương vàng, giao 140 rương bạc cho Võ Trọng Bình, nguyên Tổng đốc Nam Định đã trí sĩ, đang cư ngụ ở Quảng Bình. Ông này chuyển 83 rương bạc cùng một khối lượng vàng ròng cho các quan tỉnh đương nhiệm ở Đồng Hới, để rồi sau đó các ông này giao nộp lại cho người Pháp.

Ngày 24.7.1885, một quan chức Pháp là Silvestre được Tuần vũ Quảng Bình báo cho biết là trong địa hạt của ông còn có 30 rương bạc ở Vạn Xuân, mỗi rương chứa 50 thỏi bạc, giá mỗi thỏi tương đương 81,57 franc, 50 rương bạc ở nhà Võ Trọng Bình, và 50 rương vàng ở nhà một viên quan khác tên Lê Mô Khai.

Khâm sứ Huế Palasne de Champeaux

Khối lượng vàng bạc do Pháp thu hồi được tại Quảng Bình từ tay Võ Trọng Bình, các viên chức xã Vạn Xuân và từ một số quan chức khác đã không được các cây bút Pháp như Jules Silvestre, Charles Gosselin, Paulin Vial ghi chép như nhau, song căn cứ vào một bức điện do tướng De Courcy gửi về Paris thì trị giá khối lượng của cải do Tôn Thất Thuyết mang theo và Pháp thu hồi được tại Đồng Hới (Quảng Bình) là 1 triệu franc, tại Quảng Trị là 250.000 franc.

Sau hành trình gian khổ sang đất Lào rồi quay về Hà Tĩnh, Quảng Bình, đến tháng 1.1886, đoàn xa giá của vua Hàm Nghi chỉ còn mang theo mấy rương bạc. Qua tháng 2.1886, sau một cuộc đụng độ lớn giữa binh sĩ hai bên, Tôn Thất Thuyết rời vua Hàm Nghi, tìm đường sang Tàu để cầu viện, để hai con trai là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp ở lại bảo vệ nhà vua. Do đã ký hòa ước Thiên Tân năm 1885 với Pháp, người Tàu không giúp được gì cho cuộc kháng chiến tại VN, Tôn Thất Thuyết kéo dài những tháng ngày bất đắc chí trên đất khách và qua đời năm 1913.

Trước ngày bị Pháp bắt vào 2.11.1888, vua Hàm Nghi không còn của cải gì. Song cho đến nay, kho báu của triều đình Huế còn rơi rớt lại trong cư dân ở Quảng Bình, Hà Tĩnh hay chôn giấu đâu đó chưa tìm ra hết vẫn là một bí ẩn.

5/5 - (1 bình chọn)

Viết một bình luận