Trận chiến Đồn Chí Hòa – Kỳ vọng ngăn bước chân Pháp tiến vào xâm lược của triều Nguyễn

Đại đồn Chí Hòa (gọi tắt là Đại đồn) nằm ở làng Chí Hòa thuộc Gia Định xưa. Vào thời kỳ đó, đây trở thành hệ thống đồn lớn nhất Việt Nam, do tướng Nguyễn Tri Phương chủ trương xây dựng nhằm phòng thủ phía Tây Bắc thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn trước các cuộc tấn công của liên quân Pháp – Tây Ban Nha trên đất Việt vào năm 1860 – 1861. Nhưng cuối cùng, mục đích đó không thực hiện được.

Năm 1858, khi quân Pháp bước đầu nổ súng tấn công vào Đà Nẵng nhưng sau cùng bị cầm chân lại ở đây. Đến tháng 2 năm sau, quân Pháp chuyển hướng mục tiêu, quyết định tấn công vào Gia Định. Điều này đã buộc quân triều đình Nguyễn phải xây dựng đồn Chí Hòa với mục tiêu ngăn chặn bước chân tiến công của quân Pháp. 

Bước đầu, khi quân Pháp tiến đánh đến cửa biển Vũng Tàu, Tổng đốc Gia Định là Võ Duy Ninh đã biết mục đích tiến đánh Nam Bộ nên cấp tốc chạy về mà báo cho triều đình. Tin vừa được truyền về, vua cử Tôn Thất Hiệp (hay còn gọi là Tôn Thất Cáp – là một vương tử, con của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) mang theo 1.000 binh vào Nam chỉ huy phòng thủ. 

Vừa mới đến Biên Hòa, Tôn Thất Hiệp nhận được tin thành Gia Định thất thủ, ông quyết định quay trở lại thành để củng cố. Chọn làng Chí Hòa và Phú Thọ xây dựng lên một đồn chống Pháp, dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh (đường Cách mạng Tháng Tám ngày nay) làm trung tâm để xây dựng chiến lũy. Ban đầu gọi là đồn Phú Thọ, sau mới đổi tên thành đồn Chí Hòa hoặc Kỳ Hòa. 

Liên quân Tây Ban Nha – Pháp đánh phá Đại đồn Chí Hòa

Nhà văn Sơn Nam có ghi lại trong tác phẩm “Bến Nghé xưa” của mình rằng: 

“Tướng Tôn Thất Hiệp (rồi tướng Nguyễn Tri Phương) đều nhất trí chọn lựa cuộc đất trong địa phận làng Chí Hòa và Phú Thọ dọc theo rạch Nhiêu Lộc, lấy con đường đi Tây Ninh làm trung tâm để xây đồn lũy gồm nhiều lý do:

– Vị trí này có thể khống chế và cắt Saigon – Chợ lớn ra làm hai khu vực, không cho thực dân bám vào nguồn tiếp tế từ đồng bằng sông Cửu Long.

– Quân đồn điền từ Gò Công Mỹ Tho dễ tới lui xây dựng thành.

– Phía bắc của Phú Thọ – Chí Hòa giáp 18 thôn Vườn trầu, đông đúc những người côi cút làm ăn, giàu nghĩa khí.”

Còn trong quyển “Monographie de la province de Gia Định” của Hội nghiên cứu Đông Dương được xuất bản năm 1902 cũng mô tả đồn Chí Hòa như sau: 

“Một ngàn quân do vị quan Tôn Thất Hiệp chỉ huy đóng tại ngôi làng cũ tại Chí Hòa, ở 5km phía tây Saigon. Vị tướng này cho xây đắp ba đồn: Đồn Tiền trên đường đi Tây Ninh với hai đồn ở hai bên, bên hữu và bên tả, cách nhau 400m là đồn Hữu và đồn Tả, đồn sau này ở trên rạch Bà Tiềm”.

Sau khi đồn Chí Hòa được xây dựng xong, nó trở thành bức tường thành ngăn chặn bước chân của Pháp và trong “Đại Nam thực lục” viết: 

“Quân Tây dương đến đồn Phú Thọ do Tôn Thất Cáp. Quân Tây dương đánh phá Hữu đồn, Hoàng Ngọc Chung cố sức đánh bị chết trận. Tôn Thất Cáp cùng Tôn Thất Điển đốc lính ở Kinh chống nhau với giặc, chém được và bắn chết nhiều”.

Đến tháng 4 năm 1860 khi diễn ra thực chiến, quân Pháp tấn công vào đồn Chí Hòa, nổ ra một cuộc giao tranh lớn. Kết quả cuối cùng là quân Pháp bị thiệt hại to lớn nhờ ý chí quyết chiến giữ đồn của quân dân Việt Nam. 

Trong “Monographie de la province de Gia-dinh” cũng có một đoạn mô tả chi tiết trận đánh này: 

“Vào những ngày đầu tháng 4 năm 1860 quân Nam ở đồn Chí Hòa được mật báo sẽ xảy ra một cuộc tấn công vào đồn lũy Chí Hòa, thật vậy, vào sáng 16/4 đại pháo của Pháp bắn về phía Cây Mai, pháo binh Pháp tiến đến trước Đồn Hữu và bắn vào Đồn. Quân Nam bắn trả, một lúc sau, đại pháo bảo vệ đồn bị bắn hạ và quân Pháp tấn công vào thành.

Quân Nam chống trả mãnh liệt và chỉ chịu thua khi chỉ huy của họ là Trần Tương Tư bị trúng một phát đạn vào đầu khi đang ở trên thành. Họ rút lui vào đồn Tiền, đồn này được phòng thủ vững chắc. Một hố rộng bao quanh thành, các vật dẫn hỏa, những cây gỗ lở, chởm mũi nhọn chất đầy mặt thành, sẵn sàng rơi xuống đầu kẻ tấn công thành. Quân phòng thủ cộng thêm số ở đồn Hữu chạy sang có khoảng 1500 người.

Lúc 8 giờ, quân Pháp tấn công dưới làn đạn của đồn Tiền và đồn Tả. Sự cố gắng của họ bị thất bại trước chướng ngại dồn dập. Sau hai giờ chiến đấu quyết liệt làm thiệt hại mỗi bên hơn 20 người. Đến 3 giờ chiều, họ trở lại Cây Mai.

Dưới thành Đồn tiền có 6 xác thủy quân pháp bị giết ở những lỗ châu mai khi họ tìm cách đột nhập vào thành. Các quân Nam cho ném họ vào một cái đảo nhỏ bên cạnh (Mật-cật). Cùng ngày tướng Tôn Thất Hiệp cho quân thông báo về Huế tin chiến thắng. Triều đình gởi tiền bạc vào để khen thưởng quân sĩ.”

Sau khi thua trận, quân Pháp biết mình không thể đánh tiếp mà im hơi lặng tiếng để chờ đợi thêm viện binh. Còn về phía phe ta, để củng cố thế trận, năm 1860, vua Tự Đức đã sung chức Gia Định Quân thứ cho tướng Nguyễn Tri Phương thay cho Tôn Thất Hiệp, để cùng Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển trông coi việc quân sự ở miền Nam. 

Biết được quân Pháp có hỏa lực hạng nặng nên Nguyễn Tri Phương không lựa chọn đánh trực diện vì như thế quân ta sẽ chịu nhiều thiệt thòi và thua là điều dễ đoán. Nên ông đã lựa chọn đánh theo chiến thuật, thủ vững chiến lũy để bao vây quân Pháp, ép cho Pháp biết yếu mà rời như trận Đà Nẵng. 

Nguyễn Tri Phương quyết định tập trung binh lực, cho xây dựng mở rộng đồn Chí Hòa thành đại đồn, kéo dài thành tấm chắn. Đại đồn bắt đầu được xây dựng vào tháng 8/1860 và đến tháng 2/1861 thì hoàn thành. 

Điểm sơ một chút hệ thống của Đại đồn Chí Hòa: 

– Dài 3.000m, rộng 1.000m và được chia thành năm khu bằng nhau. Tường xây bằng đất sét và đá ong, cao 3,5m, dày 2m với nhiều lỗ nhỏ châu mai.

– Cả mặt trên lẫn mặt ngoài đều được trồng những loại cây gai, phía ngoài còn xếp thêm rào tre, đắp thêm nhiều mô đất cao, đào ao cùng vô số hố chông. 

– Đại đồn được trang bị 150 khẩu đại bác, hầu hết đều là đạn gang, hỏa lực không mạnh như của Pháp nên chỉ có tác dụng phòng thủ tầm trung.

– Bên phải của đại đồn về phía chùa Cây Mai và bên trái rạch Thị Nghè có đắp mỗi bên một chiến lũy dài, lấy đồn Hữu và đồn Tả làm điểm tựa. Đằng sau Đại đồn là nhiều đồn nhỏ yểm trợ: đồn Thanh Lương, đồn Thuận Kiều, đồn Rạch Tra…Ngoài ra, phía sau đại đồn còn có kho chứa quân lương, quân khí. 

Đồn Rạch Tra – Một trong những đồn yểm trợ phía tây nam Đại đồn Chí Hòa

Nhà văn Phan Trần Chúc đã dẫn lời của một vị tướng Pháp khi ông khen ngợi Đại đồn như sau: “Thấy phương pháp dụng binh của Nguyễn Tri Phương, người ta phải tin rằng vị nguyên soái anh hùng của nước Nam đã biết phương lược xây dựng lối pháo đài tạm thời như Totleben ở Sébastopol, Denfert Rochereau ở Belfort, Osman Pacha trong trận Plevna”.

Sau này quân Pháp cũng nhận xét rằng: “Thành lũy của Nguyễn Tri Phương dựng mau như nấm mọc, hễ chỗ nào có lối đi là có ngay chiến lũy ngăn cản”.

Dù Đại đồn Chí Hòa đã vây được quân Pháp trong phạm vi Sài Gòn, nhưng không được xem là chặt, bởi trước đó, Pháp đã chiếm lấy đồn Cây Mai. Nên Nguyễn Tri Phương mới quyết định tấn công nhằm chiếm lại đồn này để có thể thắt chặt vòng vây. Tại đồn Cây Mai, có khoảng 100 quân Tây Ban Nha và 60 quân Pháp, để tấn công vào đây, Nguyễn Tri Phương đã huy động 3.000 quân Đại Nam tấn công và hoàn toàn chiếm trọn nơi đây. 

Nhà văn Phan Trần Chúc nói rằng:

“Sau khi bao vây được quân Pháp, Nguyễn Tri Phương cho quân liều chết dưới mưa đạn để hãm đồn Cây Mai. Trong đêm 3 và 4 tháng 7 năm 1860, 3.000 quân của ông đã anh dũng chiếm được một đồn lũy do Đại úy người Tây Ban Nha Fernandez chỉ huy với 100 lính Tây Ban Nha và 60 lính Pháp. Trong tháng 11 cùng năm, quân Pháp lại tấn công dữ dội các pháo đài ở Gia Định nhưng quân nhà Nguyễn đã đánh lui được đối phương khiến quân Pháp bị thiệt hại”

Sau trận thắng này, quân Đại Nam đã hình thành nên một thế trận hoàn toàn vây chặt quân Pháp – Đại đồn Chí Hòa trở thành niềm tin của cả triều đình nhà Nguyễn là có thể ngăn được bước chân xâm lược của quân Pháp. 

Nói là thế, nhưng phòng tuyến chùa của Pháp lại có hỏa lực rất mạnh và hiện đại, quân ta dù đông nhưng lại chẳng thể tập trung tiêu diệt được vì như thế sẽ dẫn đến nhiều tổn thất. Nên nổ ra nhiều cuộc tập kích nhỏ khiến quân Pháp trong vòng vây không kịp trở tay, suốt 6  – 7 tháng mà quân Pháp lại chẳng nhận được tin gì từ phe Pháp.

Màu cam là Đại đồn Chí Hòa; màu vàng là “phòng tuyến các chùa” của quân Pháp

Điểm một chút về lực lượng hai bên để dễ dàng hình dung cao thấp của cuộc chiến: 

– Ban đầu, phe liên quân Tây Ban Nha – Pháp chỉ có khoảng 800 quân nhưng đều được trang bị vũ khí hạng nặng và vũ khí mạnh cùng với 50 chiến thuyền các loại.

– Quân Đại Nam ở Đại đồn Chí Hòa thì lại không rõ nguồn. Nguồn đáng tin nhất thì cho thấy quân Đại Nam có khoảng 15.000 quân – trong đó 10.000 quân đại đồn gia nhập, không được đào tạo, khả năng chiến đấu thấp; 2.000 lính chính quy; 3.000 quân địa phương và nghĩa binh tham chiến. 

– Nhiều nhà nghiên cứu tỏ ra tiếc nuối: Tại sao quân của Nguyễn Tri Phương đông hơn mà lại không tổ chức tấn công. Tuy nhiên, phòng tuyến chùa của Pháp không thể đùa được, đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho việc tấn công không thể xác định được. Mặc khác, Pháp đã quyết tâm đánh chiếm Gia Định nên chắc chắn sẽ cho viện quân, nên nếu cứng rắn đối đầu thì sẽ mang nhiều tổn thất, từ đó mà gặp nhiều khó khăn hơn trong việc ngăn Pháp. 

– Pháp quyết định tấn công mãnh liệt vào Đại đồn khi quân số được nâng lên 5.000 quân và dưới sự chỉ huy của tướng Charner – chỉ huy trưởng lực lượng hải quân Viễn Đông, chỉ huy quân Pháp đánh bại nhà Thanh trong cuộc Chiến tranh Nha phiến lần 2. 

– Đầu tháng 2/1861, tướng Charner lên kế hoạch dò thám trước tấn công Đại đồn Chí Hòa khi cho quân thám báo người Việt và Hoa trà trộn vào đại đồn để nắm bắt tình hình và cách bố trí quân.

Léonard Victor Joseph Charner (1797 – 1869) là một Đô đốc Hải quân Pháp

Sau mấy tuần chuẩn bị và sau khi nghe Đại tá Crouzat phúc trình công tác thám thính Đại đồn xong, 4 giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, được lệnh của Đề đốc Charner, đại bác của Pháp từ “phòng tuyến các chùa” và trên các tàu đều nhắm vào Đại đồn Chí Hòa mà bắn. Đại bác của quân Việt từ Đại đồn rộ lên đáp trả. Hai bên đánh nhau bằng đại bác tới sáng, tuy nhiên, thế lực không cân nên phe ta hoàn toàn lép vế.

Một trung úy Hải quân người Pháp – Léopold Pallu kể trong quyển “Lịch sử cuộc Viễn chinh Nam Kỳ 1861”:

“Bốn giờ sáng ngày 24 tháng 2 năm 1861, quân Pháp được lệnh tập họp. Đến 5 giờ 30 phút, đoàn quân bắt đầu lên đường. Khi ấy, pháo binh từ các chùa Barbet (chùa Khải Tường), Chochetons, Cây Mai đã bắn được một giờ rồi; và các toán quân Việt cũng đã kéo nhau dàn ra các ngả đường để phòng ngự.

(Trên đường), đại pháo do ngựa kéo bất thần nhả đạn vào đồn Redoute (sử Việt ghi là Đồn Hữu). Đối phương lập tức đốt khói để che và mặc dầu súng nhỏ và các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn kháng cự quyết liệt… Pháo binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ và ngựa bị trúng đạn… mặc dù tầm đạn của ta chính xác, liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự của bọn An Nam không bị đánh tan cũng không nao núng chút nào.”

Liên quân với tướng Charner, Thiếu tướng De Vassoigne và Đại tá Palanca (Tây Ban Nha) đưa quân cùng pháo hạng nhẹ tấn công đồn Hữu (một trong những đồn bảo vệ Đại đồn Chí Hòa). Trong trận này, cả De Vassoigne và Palanca đều bị thương, điều này được mô tả lại trong quyển “Lịch sử cuộc Viễn chinh Nam Kỳ 1861”:

“Thương vong của ta tăng lên; Đại tướng de Vassoigne, Đại tá Tây Ban Nha Palanca Gutierrez, Chuẩn úy Lesèble và Thượng sĩ Joly bị thương nặng. Thủy sư Đề đốc (Léonard Charner) bèn trực tiếp cầm quân và ra hiệu lệnh”.

Trước sự ngoan cường của quân Đại Nam, liên quân buộc phải dừng lại cuộc tấn công mà chỉ cho đại bác bắn vào thành lũy khoảng 500 quả, rồi mới tiếp tục tiến lên; lần này, nhờ có đại bác nên quân Pháp dễ dàng tiến vào phía trong. Trước tình thế đó, quân Việt đưa voi ra chống đỡ nhưng hoàn toàn không hiệu quả. 

Quân Pháp tiến vào đồn Hữu, cuộc chiến càng diễn ra ác liệt, theo kế hoạch định trước, Pháp cho một cánh quân vòng qua Tân Thới, Bình Hưng rồi đâm thẳng lên Tân Sơn Nhì tiến hành đóng quân ở Gò Cát thuộc quận Bình Tân, chuẩn bị cho một cuộc giao tranh mới.

Hai bên đánh nhau ác liệt cho đến tối ở tại đồn Hữu, tuy nhiên, quân Pháp chỉ chiếm được khoảng 1 cây số, trong khi đó, còn đến tận 2 cây số nữa mới đến mặt chính của Đại Đồn. Đêm đến, hai bên đều quyết định tạm thời ngưng chiến. Cuốn “Lịch sử cuộc Viễn chinh Nam Kỳ 1861” mô tả:

“Khi các quân lính Pháp đầu tiên nhảy được vào bên trong, trên các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy quân An Nam thối lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An Nam lùi lại một bước thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc rồi ngưng tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân đang trèo lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong mấy phút sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong thành Kỳ Hòa (người Pháp không phát âm được chữ Chí nên gọi “Chí Hòa” thành “Kỳ Hòa”).

Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An Nam chấp nhận đối đầu bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ bị sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn còn nhìn thấy nhau.”

Theo ghi chép của người Pháp, đối mặt trước những quân đội được trang bị vũ khí hiện đại nhưng quân Đại Nam lại không hề e sợ mà còn rất thản nhiên quyết chiến. Năm giờ sáng hôm sau (tức là ngày 25/2), quân Pháp tràn lên tấn công, xáp được gần Đại đồn. Song cách vách thành trăm thước thì gặp rất nhiều cạm bẫy, hào ụ, nên tiến rất chậm. Quân Pháp lúc này bị bắn chết và bị thương rất nhiều. 

Quân Pháp tấn công thành công Đồn Chí Hòa, diễn ra cuộc thảm chiến 25/2/1861

Cuốn “Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861” mô tả rằng:

“Mặt hậu tuyến của thành Chí Hòa có xây ụ phòng thủ nhô ra ở hai góc. Mặt hậu tuyến là một thành hẳn hoi, xây kín gọi là thành Giữa, dùng làm cổng sau cho cả doanh trại Chí Hòa; thành Giữa nằm trên đường ranh hậu tuyến.

Hai ụ phòng thủ hai bên và thành Giữa bảo vệ lẫn nhau. Tầm súng của địch trong thành có thể quét quân tấn công khi đến gần vùng ven biên, nơi mà quân ta phải xông vào, vùng ven biên được bảo vệ bằng hầm chông, hào và bàn chông trong khoảng rộng một trăm thước kể từ chân tường thành.”

Đối mặt với hầm chông cùng cạm bẫy của quân Đại Nam, Pháp cho đặt thang để quân lính vượt qua dễ dàng, tiến nhanh sát với tường thành nhưng sau đó lại bị chặn đánh. Trên đồn và trong có các lỗ châu mai, quân Việt bắn chém dữ dội. Phần lớn các thang tre của Pháp vác theo đều bị đánh gãy, nhưng cuối cùng vẫn có một số lính Pháp vào được Đại đồn. Quân Pháp dùng đạn ném vào trong và cứ thế tiến vào, hai bên xông vào nhau đánh giáp lá cà, giành giật từng khu một.“Quân An Nam ngưng đánh vì thấy rào gai bị phá thủng, rút xa vài phút trước khi quân Pháp ập vào, họ rút lui rất trật tự, thật chậm dọc theo bờ tường thành. Một nhóm quân lính của ta rượt theo, nhưng không ăn thua gì; vì địch quân rút hết vào một lớp thành khác trước khi quân Pháp đuổi tới.” (Theo cuốn “Lịch sử cuộc Viễn chinh Nam Kỳ 1861”).

Khi quân Pháp tiến thẳng vào trong Đại đồn, cuộc chiến càng diễn ra ác liệt, trong khoảng trống của những đồng ruộng đều tràn ngập xác chết và bi thương đầy thảm thương. Nguyễn Tri Phương trực tiếp có mặt chỉ huy quân sĩ phòng thủ, những không may, khi ông bị mảnh đại bác của Pháp văng trúng người dẫn đến bị thương rất nặng cùng nhiều người khác tử trận. Nhận thấy tình thế không ổn, quân ta chẳng thể chống đỡ lâu nên rút dần về đồn Thuận Kiều. Một số binh lính không theo kịp Nhận thấy không thể chống cự lâu hơn, quân Đại Nam đành rút về đồn Thuận Kiều. Quân An Nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch, trận chiến chấm dứt bằng một cảnh tượng tàn sát

Do sự thất bại của cuộc chiến mà ít sử sách của triều Nguyễn ghi chép lại sự kiện, tuy nhiên, rất nhiều người Pháp đã kể lại và có cái nhìn rất cao về tinh thần chống giặc của quân Đại Nam. Bởi, không có vũ khí hạng nặng, không được trang bị hiện đại những họ lại có thể khiến cho quân thù e ngại.

Một sĩ quan Pháp đã từng tham dự cuộc công kích Chí Hòa là Phillippe Aude đã viết trong 1 bức thư ngày 28 tháng 3 năm 1861:

“Những chiến lũy mà người Việt Nam dựng lên rất kiên cố đều bằng đất sét cốt tre… Quân Việt Nam rất can đảm… cũng như lòng khinh thường trước cái chết… Trong khi giao chiến họ dùng giáo, thứ khí giới này chỉ đâm được quân địch cách 4 thước, đó là 1 lối tự vệ rất can đảm, đến quân Tàu cũng chưa bao giờ nghĩ đến.”

Triều đình Nguyễn hoàn toàn mất lòng tin vào Đại đồn Chí Hòa ngăn Pháp:

Đại đồn Chí Hòa chính là niềm hy vọng lớn của nhà Nguyễn, có thể ngăn được bước chân tiến công của quân Pháp. Nên khi nhận được tin Đại đồn thất thủ, triều đình nhà Nguyễn không cam tâm mà tức tốc phái Nguyễn Bá Nghi mang 4.000 quân vào chi viện. Nhưng viên tướng này, chỉ đến Biên Hòa thì cho dừng quân lại và không hề có ý định tiến thêm. Nhân cơ hội đó mà quân Pháp đưa quân chiếm luôn Định tường, còn Nguyễn Bá Nghi thì cử người đi tìm gặp Đề đốc Charner để xin được nghị hòa và tâu về Huế rằng: “Việc nước ta ngày nay, trừ một chước hòa không có chước nào khác. Hòa thì không ổn rồi, nhưng trông mong sự khôi phục về sau…”

Về tổng thiệt hại quân số thì các nguồn sử liệu đều rất mơ hồ và không có sự thống nhất. Đáng tin nhất là trong quyển “Lịch sử cuộc Viễn chinh Nam Kỳ 1861”: “Khoảng 300 người bị loại khỏi vòng chiến, 12 bị giết tại trận, nhiều người bị thương không cứu được”. Theo sử liệu của nhà Nguyễn thì Đại Nam có 1.000 quân tử trận, trong số đó có Tham tán Phạm Thế Hiển, Lang trung Nguyễn Duy (một viên quan nhà Nguyễn, em ruột Nguyễn Tri Phương), Tán tương Tôn Thất Trĩ đều tử trận và Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương thì bị thương nặng. Ngoài ra, Đại đồn còn bị đối phương chiếm mất 2.000 súng bắn đá lửa, 2.000 kg thuốc súng, 150 trọng pháo các cỡ và rất nhiều lương thực…Nhưng trên thực tế cho thấy thì con số này hẳn là cao hơn nhiều. Bởi, 1.000 quân này chỉ tính quân chính quy của triều đình, còn những quân đồn điền cùng quân địa phương, nghĩa quân tham chiến vẫn chưa được đề cập đến. 

Còn theo báo cáo của Đề đốc Charner ngày 27 tháng 2 năm 1861 thì phía quân Pháp có 12 người chết, 213 người bị thương. Nhưng theo Léopold Pallu – sĩ quan phụ tá của Đề đốc Charner thì con số chết và bị thương là 19 người tử trận, trong đó có 5 viên sĩ quan Pháp và khoảng 300 người bị thương.

1/5 - (1 bình chọn)

Viết một bình luận