Từ những năm 1975, hệ thống các trường đại học ở miền Nam đã được xây dựng với đầy đủ cơ sở vật chất và rộng khắp ở các tỉnh miền Nam. Nhân câu chuyện bà bộ trưởng muốn đổi tên trường đại học Y Dược thành Đại Học Sức Khỏe, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về tên gọi của các trường đại học miền Nam thời kỳ trước những năm 1975.
Sau hiệp định Genève, năm 1954, đại học Đông Dương được dời từ Hà Nội vào Sài Gòn. Từ năm 1955, các trường đại học và cao đẳng ở Sài Gòn được cải tổ và được đổi tên mới là Viện đại học Quốc Gia Việt Nam.
Trước năm 1975, cả nước có 3 viện đại học công lập, đó là viện đại học Sài Gòn, viện đại học Cần Thơ và viện đại học Huế. Đến năm 1973, viện đại học Bách Khoa Thủ Đức được thành lập bao gồm 3 trường là tiền thân của Đại học Bách Khoa, Đại học Sư phạm kỹ thuật, Đại học Nông Lâm ngày nay.
Ngoài các viện đại học công kể trên, miền Nam còn có các viện đại học tư như Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện đại học Hòa Hảo, Viện đại học Minh Đức và viện đại học Đà Lạt. Bên cạnh đó, còn có trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt là nơi đào tạo sĩ quan có trình độ học vấn tương đương bằng cử nhân. Trước năm 1975, toàn miền Nam có khoảng 150,000 sinh viên gồm 120,000 sinh viên đang học tập tại các viện đại học công lập và 30,000 sinh viên tại học viện đại học tư.
Trong niên khóa cuối cùng 1974-1975 trước khi Miền Nam Việt Nam mất, toàn thể Việt Nam có 150.000 sinh viên đại học gồm 120.000 sinh viên đại học công lập và 30.000 sinh viên đại học tư, trong số đó 10.000 sinh viên học ở Miền Trung, 140.000 sinh viên theo học ở trong Nam. Số lượng sinh viên ở các viện đại học miền Nam chiếm đa số với 140,000 sinh viên. Trong khi miền Trung chỉ chiếm 10,000.
Để thi vào được các trường đại học công lập, thí sinh phải đáp ứng được đầy đủ các điều kiện được áp dụng chung cho toàn hệ thống giáo dục. Học phí cho bậc trung học và đại học là hoàn toàn miễn phí.
Viện Đại Học Sài Gòn được thành lập năm 1957. Thời gian đầu thành lập, viện có 8 phân khoa: Văn khoa, Luật khoa, Y khoa, Dược khoa, Nha khoa, Khoa học, Sư phạm, Cao đẳng kiến trúc. Bên cạnh các phân khoa, viện còn có Học viện kỹ thuật quốc gia và Đại học Kỹ thuật (được thành lập sau). Sau năm 1975, trường được đổi tên thành Đại học Bách Khoa TP.HCM.
Trường Văn Khoa và Khoa Học sau năm 1975 được sát nhập lại và đổi tên thành đại học Tổng Hợp. Hiện nay, Đại học Tổng Hợp lại được chia tách thành 2 trường là Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Và Đại Học Khoa Học Tự Nhiên.
1. Trường Đại Học Văn Khoa
Trường đại học Văn Khoa trước năm 1945 là một lớp dự bị Văn Chương Pháp thuộc viện Đại Học Hà Nội nhưng bị gián đoạn. Năm 1948 – 1949, trường mới được mở cửa lại và có 2 cơ sở ở Sài Gòn và Hà Nội. Sau năm 1954, trung tâm Hà Nội sát nhập với Sài Gòn và được nâng lên thành phân khoa. Điều kiện để nhập học trường đại học Văn Khoa là bằng Tú Tài 2 không kể ban. Trường có các phân ngành như: Việt Văn, Việt Hán, Pháo Văn, Anh Văn, Sử, Địa Lý, Triết Học, Nhân Văn. Sinh viên lựa chọn ngành học sẽ được học 1 môn chính bắt buộc, 1 môn phụ bắt buộc và các môn tự chọn.
Cuối năm học thứ nhất, sinh viên phải tham dự kỳ thi để lấy chứng chỉ dự bị văn khoa. Sinh viên phải đỗ mới đủ điều kiện học các chứng chỉ thuộc bạn học đã lựa chọn. Mặc dù chứng chỉ Dự Bị là điều kiện duy nhất để sinh viên đủ điều kiện học tiếp chương trình để tốt nghiệp cử nhân. Tuy vậy, chứng chỉ này lại không được ghi vào văn bằng. Nếu cử nhân thi đỗ 4 chứng chỉ, trong đó có 1 chứng chỉ văn chương thuộc ngành đã chọn thì sinh viên sẽ nhận được bằng Cử Nhân Tự Do. Trường hợp sinh viên đỗ 4 chứng chỉ bắt buộc, sinh viên sẽ nhận được bằng cử nhân Giáo Khoa.
Sinh viên nhận bằng cử nhân xong có thể tiếp tục học Cao Học với điều kiện sinh viên có bằng cử nhân Giáo Khoa, trong đó có 2 chứng chỉ bắt buộc hạng Bình Thứ trở lên kèm theo sự bảo trợ của giáo sư. Để nhận được bằng cao học, sinh viên phải làm tiểu luận tối thiểu 100 trang đánh máy. Tiểu luận được bảo vệ trước hội đồng giám khảo gồm 1 chủ tịch và 2 giám khảo (trong đó có giáo sư bảo trợ). Sau buổi bảo vệ, hội đồng giám khảo sẽ đánh giá, thảo luận về bài tiểu luận của sinh viên. Nếu bài luận được thông qua, sinh viên sẽ được cấp bằng cao học Văn Chương của từng ban. Chương trình tiến sĩ chuyên khoa Văn Chương được mở đầu tiên từ năm 1971.
2. Trường đại học Luật Khoa
Tiền thân của đại học Luật Khoa là trường Pháp Chính Đông Dương (École de Droit et d’Administration). Trường được thành lập tại Hà Nội vào ngày 15/10/1917. Vào năm 1931, trường đổi tên thành trường cao đẳng Luật Khoa Đông Dương theo sắc lệnh của tổng thống Pháp (École Supérieure de Droit de l’Indochine), đến năm 1941 đổi thành trường Đại Học Luật Khoa (Faculté de Droit). Năm 1954, trường chuyển vào Sài Gòn và trở thành thành viên của Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam và trực thuộc sự quản lý của Viện Đại Học Sài Gòn năm 1957.
Trường đại học Luật Khoa đào tạo học vị twf cử nhân đến tiến sĩ chuyên viên Luật cho các ngành Tư Pháp, Kinh Tế, Ngân Hàng. Điều kiện để đỗ vào trường Luật Khoa là sinh viên chỉ cần có bằng Tú Tài 2 không kể ban học, không qua thi tuyển.
Trường có 3 cấp độ đào tạo: cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ.
Cử Nhân: Học trình cử nhân thời gian đầu được sắp xếp trong vòng 3 năm. Từ năm 1960 trở đi được đổi thành 4 năm: hai năm đầu tiên, sinh viên được học các môn tổng quát và đại cương luật học, 2 năm sau, sinh viên sẽ được học các bộ môn chuyên sâu như kinh tế, công pháp, tư pháp. Sinh viên phải vượt qua kỳ thi lên lớp vào cuối mỗi năm. Với những sinh viên theo học trình 3 năm, sau khi tốt nghiệp được nhận bằng Cử Nhân Luật Khoa. Sau khi học trình tăng lên 4 năm, sau khi tốt nghiệp, sinh viên được cấp bằng cử nhân theo các bộ môn.
Cao Học: Cũng giống cử nhân, hệ đào tạo Cao Học có 3 ban được đào tạo xuyên suốt trong 2 năm. Sinh viên thi đỗ cao học năm thứ nhất được cấp chứng chỉ Cao Học Đệ Nhất Cấp, thi đỗ năm thứ hai được cấp chứng chỉ cao học Đệ Nhị Cấp.
Tiến Sĩ: sau khi được cấp đầy đủ 2 chứng chỉ cao học, học viên được tiếp tục theo học chương trình tiến sĩ. Tuy nhiên, để đủ điều kiện học tiến sĩ, học viên cần có giáo sư bảo trợ để soạn luận án để bảo vệ trước hội đồng giám khảo. Nếu luận án được Hội Đồng thông qua, học viên sẽ được cấp học vị Tiến Sĩ Luật theo khoa ghi rõ ban học.
3. Trường Đại Học Khoa Học
Tiền thân của trường đại học Khoa Học là trường Cao Đẳng Khoa Học Đông Dương (École Supérieure des Sciences). Trường được thành lập vào năm 1941 tại Hà Nội và mở rộng thêm một chi nhánh tại Sài Gòn. Năm 1949, trường được đổi tên là Đại Học Khoa Học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Sau năm 1954, cơ sở tại Hà Nội được chuyển vào Sài Gòn và sát nhập thành trường Đại Học Khoa Học thuộc viện Đại Học Sài Gòn.
Trường Khoa Học có nhiều ban, trong mỗi ban có nhiều chứng chỉ như Toán, Lý, Hóa, Sinh, Địa Chất. Sinh viên muốn đỗ trường Đại Học Khoa Học cần phải có bằng Tú Tài 2 ban A hoặc ban B mà không cần thi tuyển. Sinh viên học ban nào thì khi tốt nghiệp được cấp bằng cử nhân ban đó. Cụ thể là Cử nhân Toán, Cử Nhân Vật Lý, Cử nhân Hóa Học,…
Năm đầu tiên theo học, sinh viên sẽ được học các chứng chỉ dự bị tự chọn bao gồm:
Toán Đại Cương và Vật Lý cho bằng Cử Nhân Toán.
Toán, Lý, Hóa cho bằng cử nhân Lý hoặc cử nhân Hóa
Lý, Hóa, Vạn Vật cho bằng cử nhân Vạn Vật.
Lý, Hóa, Sinh cho bằng cử nhân Sinh Vật hoặc cử nhân địa chất.
Nếu sinh viên nhận được chứng chỉ của 6 chuyên khoa bắt buộc, sinh viên sẽ được cấp bằng Cử Nhân Giáo Khoa của ban đã học. Nếu sinh viên lựa chọn các chứng chỉ không bắt buộc thì khi tốt nghiệp sẽ được cấp bằng Cử Nhân Tự Do.
Sinh viên có bằng cử nhân được đăng ký học tiếp cao học hoặc chứng chỉ Khoa Học Đệ Tam Cấp. Nếu đỗ được chứng chỉ Thâm Cứu, sinh viên cần tìm một giáo sư bảo trợ để hướng dẫn sinh viên thực hiện luận án Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp và bảo vệ trước hội đồng Khoa Học. Nếu bảo vệ thành công, sinh viên sẽ được cấp bằng Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp. Sau khi được công nhận tiến sĩ Đệ Tam Cấp, sinh viên cũng có thể nghiên cứu, soạn luận án để theo học Tiến Sĩ Quốc Gia. Quá trình làm tiến sĩ quốc gia mất từ 5-7 năm và được trình luận án ở Pháp.
4. Trường đại học Kiến Trúc
Trường đại học Kiến Trúc vốn là một ngành của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương (École des Beaux Arts de l’Indochine) được thành lập do nghị định Toàn Quyền Merlin tại Hà nội vào ngày 27/10/1924. Đến năm 1926, ngành Kiến Trúc mới được thành lập. Từ năm 1928, trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương dời vào Đà Lạt. Từ năm 1948, trường trở thành một phân khoa của Viện Đại Học Hà Nội. Từ sau năm 1954, trường được dời về Sài Gòn và trực thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam. Từ năm 1857, trường Đại Học Kiến Trúc trường thuộc Viện Đại Học Sài Gòn.
Trường Đại Học Kiến Trúc chuyên đào tạo Kiến Trúc Sư, chuyên viên ngành thiết kế đô thị và Cán Sự Kiến Trúc phục vụ công tác xây dựng nhà cửa, cao ốc.
Từ năm 1958, từ hệ cao đẳng, trường được nâng lên thành hệ Đại Học, đào tạo trong vòng 6 năm với 3 ban: Kiến Trúc, Thiết Kế Đô Thị và Cán sự Kiến Trúc. Điều kiện để thi đậu vào trường cần phải có bằng Tú Tài 2 ban B và vượt qua kỳ thi về Toán và Vẽ.
Trong quá trình học tập, sinh viên sẽ được phân giờ thực tập và làm phải tham gia đủ số giờ quy định. Năm cuối cùng, nếu đủ các điều kiện, sinh viên sẽ được thi tốt nghiệp và được cấp bằng Kiến Trúc Sư nếu trúng tuyển.
5. Trường Đại Học Nha Khoa
Trường đại học Nha Khoa là một ban của trường Y dược Đông Dương, sau năm 1954, trường được chuyển vào Nam. Và đến năm 1963, phân ban mới được chính thức nâng lên thành trường đại Học Nha Khoa thuộc Viện Đại Học Sài Gòn.
Muốn nhập học trường Nha Khoa, sinh viên cần có chứng chỉ 2 năm đầu tiên tại trường Khoa Học như SPCN (Lý, Hóa, Vạn Vật) hoặc PCB (Lý, Hóa, Sinh Hóa) và sau đó học thêm 4 năm tại trường Nha. Sau năm 1966, ai có bằng Tú Tài 2 được tham dự kỳ thi tuyển vào trường và lộ trình học cho những sinh viên này là 5 năm.
Sinh viên vừa được học các lớp lý thuyết, vừa được tham gia học tập và thực hành tại phòng thí nghiệm đúng quy định. SInh viên sẽ được cấp bằng Nha Sĩ Quốc Gia nếu học xong 5 năm tại trường.
6. Trường Đại Học Y Khoa
Tiền thân của đại học Y Khoa Sài Gòn là trường Y Khoa Đông Dương được thành lập từ rất sớm năm 1920. Năm 1913, trường được đổi tên thành trường Y Dược Đông Dương. Năm 1948, trường có 2 cơ sở là Hà Nội và Sài Gòn. Sau năm 1954, trung tâm hà Nội được sát nhập vào SG rồi thống nhất thành Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa với 3 trường: Y Khoa Đại Học, Dược Đại Học không và Nha Khoa Đại Học Đường thuộc viện Đại Học Sài Gòn.
Điều kiện để thi đõ vào trường Y là có bằng Tú Tài 2 ban A hoặc ban B và đậu vào kỳ thi tuyển vào năm Dự Bị Y khoa và học thêm 6 năm nữa tại trường. Năm 1966, trường đại học Y khoa chủ yếu giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nhưng thời gian sau này, giảng viên có thể chọn 1 trong 3 thứ tiếng: Anh, Việt, Pháp để giảng dạy.
Cuối năm thứ 5 là 2022, sinh viên tốt nghiệp phải soạn khóa luận bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Từ sau năm 1967, sinh viên mới có thể sử dụng tiếng Việt để làm khóa luận.
Quy định của đại học Y khá gắt gao, sinh viên phải có mặt đầy đủ các buổi học, Nếu vắng quá 3 buổi trong 1 kỳ học, sinh viên sẽ bị cấm thi. Cuối năm 6, sinh viên có thể được coi như Y sĩ. Tuy vậy, sinh viên phải soạn luận án mới được công nhận là Tiến Sĩ Y Khoa hay Bác sĩ. Sau khi tốt nghiệp, các bác sĩ phải làm việc tại các bệnh viện công lập đến 2 năm sau mới có quyền hành nghề tư.
7. Trường Đại Học Sư Phạm
CŨng như những trường khác, trường đại học Sư Phạm Sài Gòn là tiền thân của trường Cao Đẳng Sư Phạm Đông Dương, thành lập tại Hà Nội năm 1917. Từ năm 1950, trường trở thành một khoa thuộc viện Đại Học Hà Nội. Sau năm 1958, ông Ngô Đình Diệm quyết định ký đổi thành trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn trực thuộc viện Đại Học Sài Gòn.
Thời gian đầu, trường có nhiệm vụ đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhất Cấp, sau đó mở thêm đào tạo giáo sư Đệ Nhị Cấp. Lộ trình học của sinh viên là 3 năm, đến năm 1661 thì đổi thành 4 năm.
8. Đại Học Dược Khoa
Cũng giống Y Khoa hay Nha Khoa, đại học dược khoa tiền thân là một ban của trường Y dược Đông Dương. Sau năm 1954, sau khi dời vào Sài Gòn và sát nhập vào trung tâm Sài Gòn. Từ năm 1962, ban Dược được trở thành trưởng Đại Học Dược Khoa Sài Gòn.
Điều kiện để được theo học trường Đại Học Dược là bằng Tú Tài 2 ban A hoặc B. Mỗi năm đều có các kỳ thi lên lớp. Cuối năm thứ 5 thi tốt nghiệp nếu trúng tuyển, sinh viên sẽ được cấp bằng Dược Sĩ quốc gia.
Ngoài ra, ở Sài Gòn cũng còn có các trường khác như:
9. Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ
Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ được thành lập năm 1957 theo sắc lệnh của tổng thống Ngô Đình Diệm. Muốn nhập học trường cần phải có bằng Tú Tài 2 ban A, B. Thời gian học cho kỹ sư là 4-5 năm tùy theo ngành đã lựa chọn.
10. Trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật
Trường được thành lập theo nghị định 1082/GD năm 1962 công tổng thống là Ngô Đình Diệm. Trường đào tạo các giáo chức dạy các môn về kỹ thuật cho các trường trung cấp Kỹ Thuật. Trường có mở các ngành như Khoa Học Ứng Dụng, Khoa Học Chuyên Nghiệp, Kỹ Nghệ Họa, Thương Mại, Tiểu Công Nghệ. Đến năm 1973, trường kết hợp với trường Cao Đẳng và Khoa Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật Phú Thọ và trở thành VIện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức dưới sự quản lý của Bộ Văn Hóa và Giáo Dục.
11. Trung tâm Quốc Gia Nông Nghiệp
Vốn dĩ là trường Chuyên Nghiệp Nông Lâm Đông Dương, được thành lập tại Hà Nội năm 1938 đến năm 1954, trường Chuyên Nghiệp Nông Lâm Đông Dương được dời vào Nam. Năm 1959, trường tái lập tại Bảo Lộc, Tỉnh Lâm Đồng trực thuộc bộ Canh Nông với nhiệm vụ đào tạo kỹ sư Nông Lâm Súc. Sau đó, vì vấn đề an ninh, trường dời về lại Sài Gòn và đổi tên thành Trung Tâm Quốc Gia Nông Nghiệp trực thuộc bộ Văn Hóa Giáo Dục.
12. Học viện hành chính Quốc Gia
Học viện Quốc gia hành chính vốn là Trường Pháp Chính Đông Dương thành lập năm 1917 tại Hà Nội, sau đó đổi thành trường đại học Luật Khoa Hà Nội vào năm 1941. Năm 1953, tại Đà Lạt, một trường quốc gia hành chính Đà Lạt trực thuộc Bộ Giáo Dục được thành lập. Nhiệm vụ của trường là đào tạo các viên chức hành chính cao cấp. Đến năm 1955, trường chuyển về lại Sài Gòn và được đổi tên thành Học Viện Hành Chính Quốc Gia.
Trên đây là những thông tin về trường các trường đại học Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung. Hy vọng những thông tin trên sẽ khiến quý bạn đọc có cái nhìn rõ ràng hơn về hệ thống giáo dục đại học miền Nam nói riêng và Sài Gòn nói chung những năm tháng cũ.