Ngôn ngữ tiếng Việt: Những từ ngữ được vay mượn từ tiếng Anh – đèn hột vịt, salem, oẳn tù tì,…

Nếu loại bỏ sự đúng sai của cuộc chiến tranh Mỹ lên đất nước ta, thì phải công nhận một điều rằng nên văn hóa của Mỹ ảnh hưởng đến ngôn ngữ tiếng Việt trong suốt 30 năm chiến tranh là khá lớn. Nước Mỹ hay còn gọi là Hoa Kỳ, nhiều người xưa lại chọn cách gọi là Huê Kỳ (dịch theo nghĩa là cờ hoa). Danh xưng này xuất phát từ văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” được ghi nhận lại. Đèn Hoa Kỳ là một trong những loại đèn được người Việt sử dụng khi chưa có những loại như đèn măng – sông, đèn tọa đăng (loại đèn lớn để bàn, hay còn gọi là đèn bát vì bình chứa dầu to bằng cái bát),….

Trong tác phẩm văn học “Vỡ đê” của tác giả Vũ Trọng Phụng được xuất bản năm 1936 có một câu viết như sau: “Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi….”

Hay trong tác phẩm “Nhớ và ghi về Hà Nội” của tác giả Nguyễn Công Hoan có giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hỏa. Muốn bán được dầu hỏa, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (…). Dầu của Mỹ, viết tắt là SOCONY (Standard Oil Company of New York) cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell. Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng…..Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (…)”.

Trụ sở của công ty xăng Shell tại góc đường Đại lộ Norodom và Luro (sau đó đổi thành Đại lộ Thống Nhất và Cường Đế, còn ngày nay là góc đường Lê Duẩn với Tôn Đức Thắng). Hình ảnh được chụp vào năm 1969.

Royal Dutch Shell (giới bình dân người Việt hay gọi nó là hãng xăng dầu “con sò” bởi cái logo của nó có hình con sò vàng viền đỏ) đã thực hiện một chiến dịch quảng cáo rất ngoạn mục là “biếu không” những chiếc đèn Hoa Kỳ cho người Việt. Ngày trước, họ chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng nên không hề biết dùng dầu hỏa, nhờ chiến dịch này mà dầu hỏa du nhập vào Việt Nam được nhiều người biết đến và dần trở nên quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày. Nhãn hiệu Shell với hình ảnh con sò lần đầu xuất hiện ở Việt Nam là những năm 1891, con sò có trên những thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel cùng với các cộng sự của mình mang đến vùng Viễn Đông. Trong cuốn “Đất lề quê thói” của tác giả Nhất Thanh cũng từng nhắc đến đèn hoa kỳ: “Cuối thế kỷ XIX, người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi vào dùng và bán (…). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa – kỳ (sic); ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào”.

Như vậy, cụm từ “đèn Hoa Kỳ” hay người miền Nam còn gọi nó là đèn “hột vịt” (do nó có dạng của chiếc đèn nhỏ, bóng thủy tinh chụp trên để che gió chỉ to bằng hột vịt), được thắp sáng bằng dầu hỏa (hay còn gọi là dầu hôi, dầu lửa), đã xuất hiện từ rất lâu rồi, có khi trước cả cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Ban đầu, người Việt không gọi là dầu hỏa, mà họ gọi là dầu Tây bởi nó là do người Tây mang sang, rồi dần dần du nhập. Ngày xưa, mấy loại dầu này thường được đựng trong những chiếc thùng sắt cứng cáp như trong bức tranh “Bán dầu Tây” của tác giả Henri Oger năm 1901. Loại thùng này cũng được người dân tận dụng nhiều, khi dùng hết dầu trong thùng, nó sẽ được tái chế thành thùng gánh nước hoặc được ra để làm các vật dụng đồ chơi cho trẻ con. 

Bên trái là hình ảnh cây đèn “hột vịt”, bên phải là bức tranh “Bán dầu tây” của tác giả Henri Oger.

Tiếp đến là một trường hợp khác của tiếng Anh du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi “Oẳn tù tì” được dịch từ cụm từ đếm “One, Two, Three” theo tiếng Anh. Sau câu hát “Oẳn tù tì ra cái gì? Ra cái này!” thì hầu hết người Việt sẽ đều ra búa, kéo, bao. Luật chơi của trò này khá đơn giản, nó thuộc dạng xoay vòng và người chơi sẽ có một trong ba lựa chọn là: kéo, búa, bao. Thường sẽ là hai người chơi với nhau, búa sẽ đập kéo, kéo sẽ cắt bao, bao sẽ bọc lấy búa. Về mặt giáo dục, tiếng Anh cũng du nhập miền Nam qua hai thời kỳ và dưới dạng hai loại ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh và tiếng anh của người Mỹ. Ở thời Đệ Nhất Cộng hòa (1955 – 1963), tiếng Anh được đưa vào chương trình học song song với tiếng Pháp, thậm chí còn được lựa chọn làm sinh ngữ chính và phụ (tùy vào sự lựa chọn của học sinh từ bậc Trung học – các lớp Đệ nhất trở lên). Tài liệu dạy tiếng Anh ở thời điểm đó phụ thuộc khá nhiều vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của tiếng Anh – Anh (hay người ta còn gọi nó là “Ăng – lê” – Anglais). Một trong những quyển sách tiếng Anh được ứng dụng nhiều thời đó là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp). 

Đến thời kỳ Đệ Nhị Cộng hòa (1963 – 1975) thì loại tiếng Anh của người Mỹ lại phổ biến hơn ở miền Nam, điều này là dễ hiểu, bởi thời kỳ đó đã có sự xuất hiện của quân đội mỹ trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt của Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng khá sâu bắt đầu từ tiếng Mỹ trong giai đoạn này, bởi nó có sự xuất hiện của khá nhiều từ vay mượn thú vị. “Ô kê” hay “OK” (chính là cách nói Okay trong tiếng Anh) là một từ nổi bật nhất, được sử dụng phổ biến nhất ở miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Nhiều người cho rằng từ này bắt nguồn từ một bộ tộc người da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ, bởi từ “okeh” của họ cũng có nghĩa tương tự với từ “ok” của người Mỹ. Phần khác lại không chấp nhận kết luận này nên xảy ra nhiều tranh cãi. Theo một chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read thì “ok” là từ viết tắt của cụm từ “all correct”. Số khác lại cho rằng đây là từ viết tắt của một từ Hy Lạp mang nghĩa là “mọi thứ đều ổn”. Chẳng ai chịu ai nên đến bây giờ, giải thích cho nghĩa cũng như xuất xứ của từ này vẫn còn bị bỏ ngỏ…

Ngoài ra, ở miền Nam, còn phát sinh thêm cụm từ “OK Salem” – nó là một cụm từ ghép được dùng bởi giới bình dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích – lô, trẻ đánh già,….Có một hình ảnh rất xấu xuất hiện ở thời điểm đó là những đứa trẻ đường phố thương chạy theo những chú GIs (Government Issues – ám chỉ những lính Mỹ dùng đồ do chính phủ cấp) để chìa tay xin những điếu thuốc lá hoặc những tép kẹo chewing – gum (kẹo cao su)….mặt thì hớn hở, miệng lại rối rít “OK Salem”. Thuốc lá Salem có vị bạc hà thanh mát (menthol) rất thịnh hành thời đó do lính Mỹ mang đến Việt Nam, họ mua được từ những PX (Post Exchange – Một hình thức của Quân tiếp vụ, họ bán cho những dân Hoa Kỳ). Người Sài Gòn thích nhâm nhi vị mạnh của thuốc lá như Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston,…..nên họ chê Salem là thuốc dành cho …. đàn bà. Có một điều thú vị ở là Salem với người Mỹ, họ phát âm là “xê – lầm”, trong khi nó lại được phiên âm sang tiếng Việt thành “xa – lem” nên người Mỹ đến Việt Nam mà muốn mua loại thuốc này mà gọi là “xê – lềm” thì người bán chỉ có biết lắc đầu quầy quậy! 

Thuốc lá Salem
Một đứa bé trở nên sáng tạo với khói từ điếu thuốc Salem ở trường đua Phú Thọ khu ngoại ô Sài Gòn.

Một trong những cụm từ tiếng Anh được sử dụng thường xuyên ở miền Nam là “number one” có nghĩa là “số một hay số dzách”. Người bình dân thay vì dùng từ “good” họ sẽ dùng thành “number one” cũng cùng nghĩa khen ngợi, chẳng hạn như “You number one GI!” (cách nói tiếng Anh “bồi” của người dân Việt). Có khen đương nhiên sẽ có chê, phản nghĩa với “Number one” chính là “Number ten” và tệ hơn thì là “nâm – bờ – ten tháo giường” được Việt hóa từ “Number ten thousand”. 

Cao bồi là một thuật ngữ được sử dụng nhiều trong ngôn người người miền Nam Việt Nam trong hàng loạt các bộ phim miền Tây (Western movies) hay người ta còn gọi nó là “phim cao bồi”, thường sẽ được chiếu ở các rạp xi – nê. Cao bồi vốn là một từ ngữ xuất hiện từ thời Pháp thuộc, nó bắt đầu từ tiếng Pháp cow-boy, còn từ cow-boy trong tiếng Pháp lại bắt nguồn từ tiếng Mỹ – Cowboy. Trong tiếng Anh từ cowboys vốn được hiểu là những người chăn gia súc ở miền Tây nước Mỹ hoặc cưỡi ngựa trong quá trình làm việc. Rộng hơn một xíu, khái niệm này còn để chỉ những người sử dụng ngựa và chăn nuôi gia súc ở khắp nước Mỹ, châu Âu và cả châu Úc. Hay nói theo một cách khác, cao bồi là chỉ những người anh hùng thích phiêu lưu, còn trong tiếng lóng thì cao bồi cũng dùng để chỉ những người lái xe hay phi công ẩu trong khi điều khiển phương tiện. Còn về kiếm hiệp một xíu, thì cao bồi lại đang chỉ những người có hành động “hành hiệp trượng nghĩa, trừ gian diệt ác”, nhưng đôi khi cũng chỉ những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh của miền Tây Hoa Kỳ thời lập quốc. 

Một chú bé đang chăn trâu được chụp lại tại Quảng Ngãi năm 1967 – 1968, người ta cũng sẽ gọi cậu bé là “cao bồi”

Thật chất thì cụm từ “cao bồi” sau khi được du nhập vào miền Nam đã có rất nhiều biến thể ý nghĩa khác nhau. Ví dụ: người lái xe cao bồi là người lái ẩu, người ăn mặc phong cách cao bồi có nghĩa là mặc lố lăng, khó coi,….Còn nhớ ngày xưa nhạc sĩ Lê Thương từng có một ca khúc mang tên “Học sinh hành khúc”, ca khúc ý nghĩa ca tụng thế học sinh – là mầm non của đất nước. 

“Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.

Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao.

Lúc khắp quốc dân tranh đấu hy sinh cho nền độc lập.

Học sinh nề chi tuổi xanh trong lúc phấn đấu.

Đem hết can tràng của người Việt Nam tiến lên!….”

Nhưng chẳng biết từ đâu, chắc là do các cậu học trò tinh nghịch, ca khúc lại bị “chế” lời thành:

“Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô

Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô….”

Sở dĩ có câu hát “chế” này là do đồng phục của học sinh chỉ có quần xanh – áo trắng nên anh nào mà lỡ khoác lên mình chiếc áo caro thì sẽ bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi ngay. Còn cái câu mà “hủ tiếu ăn hai ba tô” thì chắc là do các cậu thêm vào để cho vần với vần “ca rô” thôi, chứ học sinh thời đó làm gì có tiền mà ăn được nhiều thế. 

Ngoài từ cao bồi ra, người ta còn dùng từ “hít cốc” để diễn tả một điều gì đó có tính kinh dị và đáng sợ, từ này xuất phát từ tên của một vị đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock. Ông được mệnh danh là “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài trong 6 thập kỷ. Người Sài Gòn đã xem nhiều phim của Hitchcock và đều cảm thấy toát mồ hôi lạnh nên cũng dùng cụm từ “hít cốc” để diễn tả nỗi kinh hãi. 

Một trong những tác động xấu mà lính Mỹ mang đến cho dân miền nam trong chiến tranh là hiện tượng “snack bar” (xì – nách ba) mọc lên như nấm sau một cơn mưa ở Sài Gòn. Với người Hoa Kỳ, snack bả nguyên thủy chỉ đơn thuần là nơi được bày bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hotdog, hamburgers, french fries,….và kèm theo đó là một ít loại đồ uống lạnh. Nhưng khi sang đến Việt nam, hình thức này lại bị biến tướng trở nên khác xấu, xì – nách ba lại trở thành nơi lui tới của bọn lính Mỹ xa nhà nhớ quê, mượn rượu giải sầu và được phục vụ bởi những cô gái bản xứ. Họ hầu hết đều là dân quê, mới lên Sài Thành, ít học hành nhưng lại có tí nhan sắc, họ được cho ăn mặc “thời thượng” với những chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì – nách ba hay còn gọi là gái bán ba thường chỉ có việc ngồi uống nước và nói chuyện cùng khách nên lính Mỹ còn gọi họ là “Saigon Tea”, trung bình thì 1 đến 2 đô cho một ly. Họ không được gọi là “gái điếm” vì không phải gái bán ba nào cũng “đi khách”. Cũng từ những cô gái này mà xuất hiện thêm một loại tiếng anh “giả cầy” kiểu của “broken English”, là dạng tiếng Anh ghép từ vựng thôi chứ không theo bất kỳ cú pháp cấu từ nào cả. Người ta sẽ nghe loáng thoáng cách mà những cô gái xì – nách ba “đấu hót” với lính Mỹ, kiểu “Hello GI, you buy me Saigon Tea” – được dịch thành là “Chào anh lính, anh mua cho em một ly Sài Gòn nhé”. Hay còn đáng sợ hơn là cụm câu “No star where” chính là ý nghĩa của “Không sao đâu”! 

Ngoài những thuật ngữ trê, lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam những cụm từ khác từ hồi chiến tranh Triều Tiên như “mama-san” là gọi người đàn bà lớn tuổi, “papa-san” là người đàn ông lớn tuổi, còn con nít thì thành “baby-san”. Còn những cô gái bán ba cũng hay nói những từ này khi nói về gia đình mình. Ngoài nghĩa trên thì “mama-san” còn được dùng để ám chỉ người điều hành xì – nách ba, tương tự như tài – pán, người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp. 

Cũng không quá điêu khi nói kinh doanh snack bar là một nghề hái ra tiền ở Sài Gòn, ngoài ra còn có các dịch vụ như tắm hơi (steam bath), mát xa (massage),…Nhưng nói chung thì những nghề này đều làm cho Sài Gòn đánh mất đi sự lành mạnh vốn có, người phụ nữ thì bị đẩy vào những hoàn cảnh cùng đường, tội lỗi. Nhưng đó lại là một phần hệ quả do chiến tranh để lại, dường như chẳng đất nước thuộc địa nào có thể tránh khỏi. Xã hội miền Nam không chỉ có nghề thu hút người làm việc ở các quán bar, mà nó còn một nghề thuộc giai cấp cao hơn đó là làm cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK thành lập từ đầu thập niên 60, chịu trách nhiệm cho các công trình xây dựng Xa lộ Biên Hòa, Quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp,…hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ. Nói chung là người làm việc sở Mỹ, có mức lương khá cao nhưng đòi hỏi trình độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Trình độ càng cao sẽ đồng nghĩa với công việc chức vụ cao hơn như thông dịch viên….như trường Sinh ngữ Quân đội có khóa đào tạo thông dịch viên được đồng hóa với cấp bậc trung sĩ phục vụ ở các tiểu khu có cố vấn Mỹ. 

Cuối thập niên 60 và đến đầu thập niên 70, Sài gòn chịu ảnh hưởng lớn từ phong trào Hippy của Mỹ, người ta dễ dàng bắt gặp các từ ngữ có liên quan ở bất cứ đâu như hoa hippy, hippy bụi đời, hippy yaourt,…Trong thời trang, phong cách hippy cũng xuất hiện một cách rộng rãi như váy ngắn (mini jupe, mini skirt), quần ống loe (gọi là quần chân voi), áo dài hippy ngắn cũn cỡn kết hợp với chiếc quần ống loe thùng thình, còn các cậu trai thì theo đuổi mái tóc dài, nếu nhìn từ xa chắc chẳng thể nào phân biệt nỗi giới tính….

Vào những năm 1960, có một nhóm anh chị em tuổi teen có năng khiếu âm nhạc đã lập nên một ban nhạc Rock ‘n’ Roll nổi tiếng Sài Thành, đặt tên là CBC. Nhóm gồm 7 thành viên trở thành nhóm nhạc rock lớn nhất miền Nam. Đây là buổi trình diễn của họ ở Sài Gòn năm 1974 với phong cách thời trang Hippy trẻ trung và năng động.

Cuối thập niên 60 rộ lên phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam ở Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war” – đại ý là làm tình chứ đừng gây chiến tranh. Biểu tượng của phong trào là hoa không lá hay còn gọi là “hoa hippy”, bắt nguồn từ năm 1965 ở khu Berkeley, California, lấy hình tượng từ Power Flower (sức mạnh của hoa). Hình ảnh khiến người ta nhớ mãi không quên: Một cô gái hippy đã gắn một bông hoa lên họng súng của một quân nhân đang thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong cuộc biểu tình phản chiến. Ở Sài Gòn, người ta theo đuổi phong cách hippy bằng cách gắn hoa lên tai, cài lên tóc, gắn vào kính làm duyên, thậm chí là có người còn gắn lên xe (bất kỳ loại nào). 

Trong trường Sinh ngữ Quân đội cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy từ Thủ Đức về có tên là Thịnh, là một chuẩn úy khá trẻ tuổi, học vị lại cao nhưng lối sống lại lè phè khó chấp nhận với một người quân nhân. Hằng ngày đến trường bằng chiếc xe mui trần (decapotable) được trang trí theo phong cách hippy, nên nhiều người gọi anh ta là “Thịnh Hippy”. Có thể thấy, phong trao hippy không chỉ lan rộng ở thành thị mà còn len lỏi đến tận địa danh của những người lính. Có lẽ, sẽ chẳng ai chấp nhận được hình ảnh đối lập: người lính ngày ngày đương đầu với súng đạn để chống giặc, người đô thành thì lại a dua theo các phòng trà, quán bả. Một bên thì phải hy sinh tính mạng để “tham chiến”, một bên thì ăn chơi “phản chiến”, cảm giác mâu thuẫn trong một đất nước, liệu đây có phải là lý do khiến Chiến tranh miền Nam sụp đổ? 

Đánh giá post

Viết một bình luận