Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Việt Nam đã dùng những từ ngữ vay mượn nào từ người Tàu: hủ tiếu, xì thẩu, tài xỉu .v.v.

Nếu nói không ngoa thì bất kỳ ngôn ngữ nào trên thế giới cũng đều trải qua sự vay mượn từ những ngôn ngữ khác để hình thành vốn ngôn ngữ riêng. Ảnh hưởng văn hóa được xem là một trong những tác động chính cho việc hình thành sự vay mượn về mặt ngôn ngữ của các nước. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, xã hội và chính trị. Điển hình là miền Nam nói chung hay toàn Sài Gòn nói riêng vốn là “melting pot”, dễ dàng hòa nhập  với nhiều nền văn hóa khác như Trung Quốc, Pháp, Mỹ hay Anh.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng đã phần nào giải thích được lý do vay mượn ngôn ngữ của người Sài Gòn trong ca khúc “Gia Tài Của Mẹ” như sau: “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Thử hỏi, có một Việt Nam trải qua cả ba thời kỳ ảnh hưởng như thế từ Tàu, sang Tây rồi đến cuối cùng Mỹ thì ngôn ngữ có bị chịu tác động hay không chứ? 

Trước hết là về tiếng Trung Hoa hay ta vẫn thường nôm na gọi một cách “mỉa mai” là tiếng Tàu cùng những biến thể khi gọi người nước này là Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Chệt,…Sở dĩ có những tên gọi này là vì: 

“…An Nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi đường Tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v…Từ Ba Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao Phố (Đồng Nai), Sài Gòn – Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu…”

“…Kêu Các Chú là bởi người Minh Hương mà ra; mẹ An Nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các Chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy…”

“…Còn kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An Nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An Nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc…”

(Theo Gia Định Báo – số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/02/1870)

Cách giải thích trên của tuần báo Gia Định có từ thế kỷ thứ 19 được xem là tạm ổn về khái niệm vì đây là một trong những tài liệu xưa xuất phát từ miền Nam Việt Nam. Trong Tầm nguyên tự điển Việt Nam của tác giả Lê Ngọc Trụ thì từ Chệt hoặc Chệc theo tiếng Tiều có nghĩa là thúc (em trai của cha), nhưng khi đến người Sài Gòn thì họ lại gọi chung từ Chệc là chỉ người Hoa. 

Nếu người Triều Châu chấp nhận được gọi như thế vì có ý tôn họ làm chú, thì người Quảng Đông lại có suy nghĩ hoàn toàn trái ngược, họ nói cách gọi đó là đang miệt thị họ và họ không chấp nhận cách gọi đó. 

Người ta còn dùng các từ ngữ khác để chỉ người Tàu với ý nghĩa miệt thị và coi thường như Khựa, Xẩm, Chú Ba,…Sự phân biệt rất rõ ràng trong cách gọi chính là đối với phụ nữ thì gọi là Thím Xẩm, còn đối với nam giới sẽ bị gọi là Chú Ba. 

Năm 1956, thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa dưới chính quyền Ngô Đình Nhiệm đã đưa ra một chính sách khá táo bạo, buộc tất cả người Hoa kiều tại Việt Nam phải nhập quốc tịch, nếu không sẽ bị trục xuất khỏi đất nước. Thời điểm đó, phần lớn thương nghiệp tại miền Nam là do người Hoa Kiều kiểm soát, vì vậy, chính phủ là cố tình tạo ra sức ép để giúp những doanh nhân Việt, hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 được ban hành vào tháng 9/1956, nhắm thẳng vào những ngoại kiều hay chính xác hơn là Hoa kiều, nghiêm cấm họ tham gia vào 11 ngành nghề có liên quan đến thóc gạo, điền địa, thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn,…Ban đầu khi đạo luật này được ban hành, đã làm xáo trộn hoàn toàn nền kinh tế cả nước nhưng cũng tác động mạnh mẽ đến ngành công thương nghiệp thời đó của chúng ta. Nếu tính đến thời điểm năm 1961 riêng ở miền Nam, thì trong 1 triệu Hoa Kiều đã nhập quốc tịch gần hết, chỉ còn khoảng 2.000 người Hoa là giữ quốc tịch cũ. Người Tàu kiểm soát gần như toàn bộ nền kinh tế, nắm giữ nhiều vị trí quan trọng như sản xuất, phân phối, tín dụng. Cuối năm 1984, chiếm đến 80% cơ sở sản xuất ngành công nghiệp thực phẩm, dệt, hóa chất,…và độc quyền thương mại: 100% buôn bán, 50% bán lẻ, 90% xuất nhập khẩu. Cũng chính vì thế mà nhiều người Sài Gòn mới truyền nhau câu nói mỉa mai: “Sống phá rối thị trường, chết chật đường chật xá” để xỉa xói người Tàu khi còn sống làm lũng đoạn nền kinh tế, tới lúc chết đi lại có những đám tang rình rang khắp khu phố. 

Người Tàu ở miền Nam Việt Nam đa phần là nói tiếng Quảng Đông chứ không nói giọng Quan Thoại, mà ngay nay hay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế mà ngôn ngữ Sài Gòn hầu như là vay mượn từ tiếng Quảng Đông, cùng với 71 triệu người Hoa trên khắp thế giới đồng sử dụng. 

Những người “ăn nói không đâu vào đâu” sẽ được người Sài Gòn ví là “nói hoảng, nói tiều” tức là “nói tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu”. Điều này cũng ngầm khẳng định sự xuất hiện của tiếng Quảng Đông trong ngôn ngữ miền Nam là từ trước năm 1975, sau đó mới chèn thêm ngôn ngữ Triều Châu.

Trên thực tế, người Tàu được chia làm tận 5 nhóm: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam, Khách Gia (Người Hẹ). Trong ẩm thực Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng Đông cũng rất đậm nét, người ta thường nói: “Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”, còn bến Tàu thì lại nói: “Thực tại Quảng Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Câu này có nghĩa là: Cơm ngon tại Quảng Châu, Áo đẹp vải tốt cứ đến Hàng Châu, Vợ xinh dâu thảo cứ về Tô Châu, còn hòm chết chôn không bao giờ mục là tại Liễu Châu). Kết hợp ý nghĩa của cả hai câu nói, ta có ngay cái kết luận: ăn uống theo người Tàu có gốc Quảng Đông thì chỉ có hết sảy hay số dzách (số một) – những từ này khá thông dụng tại miền Nam, không chỉ ở thời đó mà đến tận bây giờ. Về sau, vào thời điểm chiến tranh tại Việt Nam, theo cách nói của người Mỹ thì “số dzách” cũng được cải biên thành “năm-bờ-oăn” (number one). 

Cơm Tàu thường được đặt trong thố nhỏ nên gọi tắt là cơm thố, nó là cơm trắng dùng chung với những món ăn, nhưng cơm này không được nấu chín bằng nồi mà được hấp cách thủy. Một người bình thường chỉ cần ăn tàm một hai thố là no “ứ hự”. Nhiều người vẫn ca tụng cơm thố rất ngon rồi, chỉ cần chan thêm chút xì dầu (nước tương) pha với chút dấm Tiều, bỏ vào vài lát ớt cay là đã xong bữa. 

Cơm chiên dương châu cũng là một món ăn được du nhập từ Quảng Đông, được nhiều người yêu thích nhưng lại ít người biết khởi nguồn của món này lại chính là món tổng hợp từ những thức ăn thừa chế biến lại: Cơm nguội nấu dư hôm trước, các nguyên liệu thêm như trứng rán, đậu Hà Lan, hành lá, jambon,…cứ cái nào còn dư thì cứ cắt hạt lựu rồi cho vào, trộn đều với cơm rồi chiên lên! 

Còn một món họ hàng với cơm chiên dương châu (thuộc loại thức ăn thừa) chính là Tài páo (bánh bao). Nhân bánh chính là những mẫu thịt vụn, xào lên chung với lạp xưởng, nấm tai mèo, trứng (sau này được thay thế bằng trứng cút hoặc trứng vịt muối), vỏ bánh làm từ bột mì thêm chút bột nở để khi hấp chín bánh sẽ phình to ra trông rất bắt mắt. 

Nhiều người vẫn bảo rằng cơm chiên và bánh bao là thể hiện tính tiết kiệm và tằn tiện của người Tàu, vì nó rẻ mà lại không bỏ thừa đồ ăn. Nhưng điều ít người biết là dù cơm chiên hay bánh bao hay những món sơn hào hải vị như bào ngư, vi cá,…đều đòi hỏi khả năng nấu nướng cao, đó là nghệ thuật chứ không còn đơn thuần là chế biến. 

Khắp Sài Gòn, Gia Định rồi rộng thêm chút ra Lục Tỉnh, đâu đâu cũng nhìn thấy những chiếc xe mì, xe hủ tiếu, chỉ cần nhìn cách trang trí đặc trưng và thiết kế cầu kỳ, ta có thể dễ dàng nhận ra chủ nhân của nó là người Tàu. Phần trên xe hầu như đều được trang trí bởi những hình vẽ như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi,…đều là những anh hùng trong truyện Tam Quốc diễn nghĩa. 

Ăn điểm tâm xong thì người ta sẽ luôn gọi kèm theo một ly xây chừng, nó là một tách cà phê nhỏ hay tài phế (ly cà phê lớn). Ngày xưa chưa có phin cà phê như bây giờ, họ thường lọc cà phê bằng cái vợt lưới nhỏ nên có cái tên là “cá phé vớ (dzớ)” tại cái vợt như hình cái vớ nên mới có cách gọi như thế. Cà phê đựng trong “dzớ” sẽ được đun trong siêu nên nhiều người vẫn gọi là “cà phê kho”, nhưng lạ ở điểm nếu “kho” nước đầu thì cà phê uống có mùi thơm nhè nhẹ nhưng đến nước thứ hai lại thoang thoảng mùi thuốc bắc….Sang hơn xíu thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa ít cà phê), nhiều người chế thêm cách ăn rất độc đáo là dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người Bắc gọi là quẩy) nhúng vào cà phê để ăn thay điểm tâm sáng. 

Người bình dân còn có cách uống rất đặc trưng là uống cà phê dĩa, mỗi tách cà phê sẽ được đặt lên một cái dĩa nhỏ, người “sành điệu” sẽ đổ lượng cà phê vừa phải ra dĩa, đốt thêm điếu thuốc Melia, đợi cà phê nguội rồi kê miệng…húp. Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào thập niên 50 – 60, đa số là những cụ lớn tuổi, họ hoài niệm cái đẹp đẽ của Sài Gòn xưa nên vẫn duy trì cách uống đó. 

Đến Chợ Lớn, vào ngay một quán nước bình dân và gọi một ly suỵt xỉu thì người ta sẽ mang ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người đùa vui rằng đá chanh là một loại uống “bất hiếu tử” bởi người uống dám “đánh cha”….và nói lái lại chính là “đá chanh”! Ở các tiệm “cà phê hủ tiếu” sẽ luôn có bình trà nhỏ đặt ở trên bàn, khách có thể vừa xơi vừa nhâm nhi nhậm xà (uống trà) trong lúc gọi “phổ ky” đến “thảy xu” (tính tiền) – nhậm xà ngoài ra còn có nghĩa là tiền hối lộ hoặc tiền trà nước. Còn với “sành điệu” họ sẽ “xổ” nguyên một tràng rằng: “Hầm bà làng kỵ tố?” (có nghĩa là hết thảy là bao nhiêu tiền?). 

Từ ngữ mà người Việt chúng vay mượn từ người Tàu đã được thuần hóa từ lâu, hay nói đúng hơn là “dùng lâu hóa quen” nên có nhiều câu từ chúng ta cứ ngỡ là của mình như thực chất lại được vay mượn của ngoại lai. Chẳng hạn hình thức lì xì dịp Tết cho con cháu (đây gọi là lấy lộc, mừng cho bé vui) nhưng nếu lì xì cho thầy chú (cảnh sát) để tránh phiền nhiễu, mong sớm qua chuyện thì lại thành là hối lộ. 

Đơn giản từ “lạp xưởng” – đây là món ăn cũng khá quen thuộc, miền Bắc sẽ gọi là “lạp xường”, nó là một món ăn có nguồn gốc xuất xứ từ bên Tàu, tiếng Quảng Đông gọi là “lạp trường”. Được làm từ thịt heo nạc và thịt mỡ, trộn lại và xay nhuyễn cùng nhau, thêm chút rượu và đường, sau đó trộn đều hỗn hợp và nhồi vào ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng có màu hồng hoặc màu nâu sậm thì có thể là do thêm chút bột màu. Các dịp Tết ở bên Tàu, các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh, Đông Hưng Viên trưng bày hàng hà sa số những loại lạp xưởng khác nhau để làm đa dạng lựa chọn cho khách hàng như lạp xưởng mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi,…Ở Việt Nam hay cụ thể hơn là ở Lục Tỉnh miền Tây Nam bộ là có Sóc Trăng với món lạp xưởng và bánh pía là đặc sản. Bánh pía cũng là một món ăn có nguồn gốc từ người Tiều gốc Triều Châu. Nó còn gọi cái tên là bánh lột da, thực chất thì xuất phát từ bánh trung thu kiểu Tô Châu. Bánh pía là do người Minh Hương mang theo khi di cư sang Nam từ thế kỷ 17. Trước đây thì người ta làm bánh pía bằng thủ công, chỉ phục vụ cho gia đình; bánh ngày trước thì đơn giản hơn, vỏ ngoài bằng bột mì, được làm thành nhiều lớp mỏng, bọc lấy phần nhân bên trong, vỏ bánh dày có in chữ, nhân thì đậu xanh thêm chút thịt mỡ chứ không cho thêm lòng đỏ trứng muối hay các thành phần khác như bánh của ngày nay. 

Tại Sóc Trăng có hơn 50 lò sản xuất, tuy nhiên, số lò bánh cũng như cửa hàng buôn bán chỉ tập trung nhiều tại thị tứ Vũng Thơm (Sóc Trăng) – Đây cũng được xem là nơi khởi nguồn của bánh pía tại miền Nam Việt Nam. 

Đặc sản người Tàu thì ta không thể bỏ qua món “vịt quay Bắc Kinh” hoặc “vịt quay Tứ Xuyên”, da vịt mỏng được quay vàng ươm trông cực kỳ bắt mắt, có độ giòn, ngon mà lại không ngấy. Tại miền Nam, người Quảng Đông cũng thêm “đặc sản” ấy vào danh sách ẩm thực, ngoài vịt quay còn có thêm heo quay. Bí quyết gia truyền của món ăn này là ướp cùng ngũ vị hương làm sao cho khi quay da phải thật giòn nhưng phần vịt bên trong phải vừa mềm mà lại vừa thêm. Món ăn này khi ăn đúng kiểu là cùng với bánh bao chay (dạng bánh bao không nhân, có vị ngọt nhẹ từ bột bánh, có thể hấp chín hoặc chiên vàng) nhưng do khẩu vị của người Việt nên họ chế biến thêm để ăn cùng rau, bún, bánh hỏi,…thêm chút nước mắm chua ngọt. Ngày xưa, nếu hỏi vịt quay, heo quay Chợ Lớn chỗ nào ngon nhất thì phải thẳng tiến ngay đến khu đường Tôn Thọ Tường, còn Sài Gòn thì có khu Chợ Cũ của người Tàu bán cũng siêu ngon. 

Ăn rồi giờ tới ngôn ngữ trong chơi, điển hình là chuyện cờ bạc trong ngôn ngữ từ vay mượn của người Tàu. Tài xỉu (Đại – Tiểu) là một trò chơi dân gian, chỉ cần 1 cái dĩa, 1 cái bát to và 3 hạt xí ngầu, người ta còn gọi là sóc dĩa. Hạt xì ngầu có 6 mặt mỗi mặt có những chấm nhỏ thể hiện cho 6 con số từ 1 đến 6, khi sáp sòng ba hạt xí ngầu sẽ được đặt lên dĩa và úp có tô to lên rồi lắc đều. Tổng điểm của cả 3 hạt nhỏ hơn 10 thì tính là xỉu, còn lại chính là tài, người chơi có một việc rất đơn giản là cược tài hoặc xỉu, còn chuyện thắng thua sẽ phụ thuộc vào tài lắc của người sóc dĩa hay còn gọi là “hồ lỳ”. Ngoài ra còn nhiều hình thức bài bạc bắt nguồn từ người Tàu khác như “Bình xập xám” (13 cây) cùng những thuật ngữ mà người không chơi sẽ chẳng thể nào hiểu được: mậu binh (không đánh cũng thắng), cù lũ (3 con giống nhau và một đôi, ví như 3 con K và đôi 9 – lớn nhất là cù lủ ách “A” và nhỏ nhất là cù lủ hai hay gọi là heo “2”), thùng (5 con cùng nước mà không theo bất kỳ một trật tự nào). Ngoài ra còn có xám chi (3 con cùng loại), thú (2 con cùng loại) hay thú phé (2 cặp và 1 con bất kỳ), thứ nhất tứ quý (4 con giống nhau), thứ nhì đồng hoa (cùng 1 nước như cơ, rô, chuồn, bích),….và cả một rừng từ ngữ khác trong bài bạc. 

Tiếp đến là ngôn ngữ người Tàu trong công chuyện làm ăn, nghề nghiệp được xem thấp kém nhất trong người Tàu là nghề lạc xoong, qua miền Nam gọi là ve chai hay đồng nát. Chú Hỏa (1845 – 1901) là người Phúc Kiến cũng xuất thân từ nghề buôn đồng nát những sau này lại chính là một trong tứ đại gia Hoa Kiều của Sài Gòn xưa, đúng với câu: “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Hỏa” và Tứ Hỏa chính là chú Hỏa hay còn gọi là Hui Bon Hao (Hứa Bổn Hòa). 

Một số người Tàu hành nghề bán chạp phô, các mặt hàng được bày bán thì vô số tả pín lù nhưng như thế lại đáp ứng đầy đủ nhu cầu của mọi người. Tiệm chạp phô bây giờ gọi là tiệm tạp hóa, chỉ có mục đích là lượm bạc cắt từ cây kim, sợi chỉ, từ quả trứng đến thẻ đường mà thôi. Người Tàu rất kiên trì với tiệm chạp phô, công việc nhẹ nhàng, ông chủ lại ung dung, khi nào có người cần thì mới làm việc, đến tối lại thảnh thơi mà đếm bạc và ẩn sau cái tiệm nho nhỏ đó lại là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ biết đến điều này khi phong trào vượt biên nổ ra, “3 cây 1 người” nhưng cả gia đình chủ tiệm lại thừa sức mà tìm đến bờ biển tự do. 

Cao cấp hơn là những xì thẩu, họ là những người thành công trong kinh doanh mà ngày nay ta gọi là “đại gia”. Điển hình là ông chủ Trần Thành – là ban trưởng Triều Châu với hãng bột ngọt Vị Hương Tố và mặt hàng mì gói Hai Con Tôm, rồi đến nước tương, tàu vị yểu đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường miền Nam từ thập niên 60, ông còn được mệnh danh là “ông vua không ngai trong vương quốc Chợ Lớn”. Ngoài ra còn nhiều xì thẩu danh tiếng khác trong danh sách “đại gia Sài Gòn xưa” như xì thẩu Lý Long Thân – chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng lớn như hãng dệt Vinatexco, hãng cán sắt Vicasa, Ngân hàng Nam Việt, khách sạn Arc en Ciel,…; xì thẩu Lâm Huê Hồ được gọi là “chủ nợ của các ông chủ” khi ông là người giữ nhiều tiền mặt nhất tại miền Nam, số tiền mặt trong tay ông bằng với số vốn nhiều ngân hàng tư nhân gộp lại, người Sài Gòn vẫn nói: “Trần Thành, Lý Long Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ thì lại có Miếng”…..Cũng còn rất nhiều xì thẩu được người Sài Gòn xưa phong danh Vua như Trường Vĩ Nhiên (vua ciné), Lý Hoa (vua xăng dầu), Đào Mậu (vua ngân hàng),….Đặc biệt, xì thẩu không chỉ có nam mà còn có bà Lại Kim Dung với danh hiệu “nữ hoàng gạo”, giá gạo tại miền Nam thời đó có thể nói là do bà ấn định, chính phủ còn phải hợp tác cùng bà để ổn định giá gạo cho toàn bộ thị trường. 

Một trường hợp xì thẩu đặc biệt là Tạ Vinh, năm 1964, ông bị Uỷ Ban Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp trường cát trước cổng chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo trái phép làm xáo trộn thị trường kinh tế”. Sở dĩ làm như vậy là do Thiếu tướng Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt, không được lạm dụng tình trạng chiến tranh đất nước mà làm giàu một cách phi pháp nên cũng nhân dịp này mà ôn tổ chức hẳn một cuộc họp kín bao gồm tất cả thành phần xì thẩu Sài Gòn – Chợ Lớn để “cảnh cáo”. 

Đánh giá post

Viết một bình luận