Huyền thoại tỷ phú của Sài Gòn xưa – Đại gia Nguyễn Văn Hào một thời và hoàn cảnh nghèo khó của con cháu ông hiện nay

Sài Gòn xưa phải nói là thành phố tiềm năng kinh tế cho những ai dám nghĩ và dám làm giàu, nếu không phải thế thì làm sao mà trong thời kì Pháp thuộc trước những năm 1975 có nhiều người giàu có trở thành đại phú hộ, tiền bạc trong nhà nhiều không đếm xuể. Trong giới nhà giàu ở Sài Gòn xưa thì cũng phải kể đến ông Nguyễn Văn Hảo, một trong những thương gia giàu có nhất Sài Gòn xưa, ông đã bỏ tiền ra xây một số công trình như nhà hát Nguyễn Văn Hảo và chùa ông Hảo, thậm chí căn biệt thự của ông trên đường Trần Hưng Đạo vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Giàu có là thế, những tưởng gia tài của ông sẽ được truyền lại cho con và họ sẽ có một cuộc sống giàu sang. Thế nhưng vì biến đổi của thời cuộc, cuộc sống của con ông thay vì giàu sang lại trở nên túng thiếu, nghèo nàn. Bài viết này sẽ giúp bạn biết rõ hơn về cuộc đời giàu sang của ông Nguyễn Văn Hảo và cuộc sống nghèo túng của con ông.

Hiện nay trên con đường Trần Hưng Đạo có một căn nhà với lối kiến trúc Pháp với vị trí khá đẹp là 4 mặt tiền đường. Khi nhìn vào căn nhà ta sẽ thấy khắc chữ NG V.HAO, vì không biết căn nhà đó tên chính xác là gì, lại thấy bên ngoài tường nhà khắc chữ đó nên mọi người gọi đây là tòa nhà Nguyễn Văn Hảo. Tại sao chỉ với chữ viết tắt đó mà người ta có thể gọi đích danh tên một người như vậy? Bởi vì căn nhà này từng là nhà của thương gia nổi tiếng khắp Nam Kỳ từ thời Pháp cho đến năm 1975 – Thương gia Nguyễn Văn Hảo. Ngoài ra, trên con đường Trần Hưng Đạo ngày nay có một rạp hát lớn ghi là rạp Công Nhân thì chủ nhân của rạp hát đó một thời cũng chính là ông Nguyễn Văn Hảo. Đó là rạp hát lớn ở những năm 1975, được người ta ưu ái gọi với cái tên “hàng không mẫu hạm”, ý nói sức chứa của rạp rất lớn, có thể lên đến hàng ngàn người. Thời đó, rạp hát này chính là thánh đường của cải lương, người dân Sài Gòn xưa mỗi lần muốn nghe cải lương đều sẽ đổ xô đến rạp này để nghe hát. “Hàng không mẫu hạm” này vẫn còn được tồn tại cho đến ngày hôm nay.

Sinh ra và lớn lên ở vùng đất cày cấy và cơ hội bén duyên với kinh doanh

Ông Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1890 ở ấp Long Thuận, xã Nhị Long, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Ông xuất thân trong một gia đình nhiều đời làm nông. Cha của ông Hảo ngày đó có 3 người vợ, ông Hảo là người con thứ 3 của người vợ thứ 3. Những tưởng cậu bé Hảo sẽ chỉ quanh quẩn nơi đồng ruộng, thế nhưng một cơ duyên đến với cậu và điều đó giúp thay đổi cuộc đời của cậu. Chắc có lẽ ngay cả cậu cũng không hề biết điều đó.

Chuyện là cậu có một người anh trai cùng cha khác mẹ mở một cửa tiệm chuyên buôn bán phụ tùng xe hơi ở đường Nguyễn An Ninh, quận 1, tên người anh đó là Nguyễn Văn Kiệu. Công việc làm ăn của tiệm khá phát đạt, anh làm không xuể nên cần tìm người phụ, chợt nhớ ra mình có một người em dưới quê, nom người em trai cũng thông minh, lanh lợi lại thật thà nên anh đã xin cha cho em trai lên phụ trông coi cửa tiệm, phụ mình buôn bán phụ tùng xe hơi.

Việc đầu tiên mà anh trai giao cho cậu em Hảo đó là buôn bán. Người ta có câu “Cần cù bù thông minh”. Đằng này ông Hảo vừa thông minh lại vừa cần cù nên ông rất chăm chỉ học hỏi, dù ở dưới quê không được học hành tới nơi tới chốn, nhưng cứ hễ ai giỏi là ông đều xin đi theo để học. Chẳng mấy chốc mà trong thời gian ngắn, ông từ một cậu thanh niên học nghề trở thành người thợ chính tại tiệm của anh trai.

Để thợ trong tiệm không qua mặt được mình, ông Hảo bắt buộc phải rành rẽ kỹ thuật. Ngoài ra, với quyết tâm sẽ có một ngày mở tiệm kinh doanh riêng nên ông Hảo ngoài việc giúp anh mình trông coi tiệm, ông còn âm thầm học thêm cách kinh doanh, các mối lái cung cấp phụ tùng xe,… Sau này khi công việc ở tiệm anh trai mình ổn định, ông đón vợ lên Sài Gòn. Đến năm 1929, hai vợ chồng có với nhau 1 đứa con trai đặt tên là Nguyễn Tâm Thạnh. Được một thời gian sau, khi đã tích lũy đủ kinh nghiệm và vốn liếng, ông xin phép anh trai cho mình ra ở và lập nghiệp riêng. Sau khi anh trai đồng ý, ông đã thuê căn nhà ở số 21 – 23 đường Galliéni (Sau này đổi tên là đường Trần Hưng Đạo) của chú Hỏa (một trong 4 tứ phú hộ giàu nhất Sài Gòn xưa) để làm cửa tiệm buôn bán. Ngoài việc buôn bán phụ tùng xe hơi, ở trước tiệm ông Hảo còn cho mở một cây xăng bơm tay để bán xăng, dầu kiếm thêm. Chẳng biết có phải do may mắn hay do tầm nhìn của ông Hảo quá giỏi mà sự kết hợp giữa sửa chữa phụ tùng xe hơi và cây xăng bơm tay lại giúp kinh tế ông phát triển đến thế. Chắc có lẽ cũng một phần do số lượng cây xăng ở Sài Gòn thời điểm đó hiếm hoi nên mỗi lần ai đó đến sửa chữa, thay thế phụ tùng xe hơi đều sẽ mang xe ra đổ xăng, thay nhớt trực tiếp ở cửa tiệm của ông cho tiện, khỏi phải đi đâu xa. Người xưa có câu “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, câu nói này chắc là dùng để nói về ông Hảo. Những năm 1930 lúc đường bộ, giao thông vận tải thời đó vô cùng phát triển, nhất là ở các tỉnh miền Nam, miền Tây khi mà phong trào thành lập xe đò để chở khách đi lại giữa các tính trở nên phổ biến, vậy nên ngành nghề buôn bán, sửa chữa phụ tùng xe hơi cũng như đổ xăng dầu thời đó làm không hết việc, càng tạo thêm cơ hội làm ăn cho ông Hảo.

Tiệm của ông nằm trên đường Galliéni gần chợ Bến Thành nên khi nhập hàng và bán ra, ông Hảo bán giá rất phải chăng, điều đó khiến cửa tiệm ông ngày càng đông khách. Mặc dù thời đó cửa hàng bán phụ tùng xe hơi cũng đã có nhưng chỉ có cửa hàng của ông là giá cả cũng như mặt bằng tốt nên tiệm của ông cạnh tranh với cả người Pháp là việc chẳng đặng đừng.

Cửa tiệm của ông Hảo cạnh tranh với người Pháp

Với các cửa tiệm của người Pháp thì đa số quản lý và nhân viên của tiệm thường nói tiếng Pháp. Trong khi tài xế của Việt Nam thì lại nói tiếng Việt, ít người biết tiếng Pháp. Vậy nên họ chọn đến cửa tiệm của ông Hảo cho lành, vừa nhanh vừa tiện, chủ tiệm lại niềm nở với khách nên mọi người lại càng thích lại tiệm ông Hảo mua hàng.

Công việc kinh doanh buôn bán của ông Hảo ngày càng phát đạt cũng một phần nhờ công của vợ ông. Là người phụ nữ chịu khó, lại có duyên buôn bán nên hầu như sau khi công việc kinh doanh của tiệm ổn định, ông Hảo yên tâm giao tiệm cho vợ trông nom, còn mình thì lo phần giao dịch mua bán phụ tùng với người Pháp. Có hôm vào lúc 2, 3 giờ sáng, có người gọi cửa hỏi mua đồ, vợ ông Hảo cũng vui vẻ bán cho họ dù món đồ ấy lời chẳng bao nhiêu. Ngoài ra, lối kinh doanh của bà Hảo cũng thu hút nhiều khách hàng, nhất là các anh tài xế. Bà thường hay áp dụng hình thức “khuyến mãi” khi mà khách tới mua hàng, nếu biết họ là tài xế thì bà sẽ bán giá phải chăng, đồng thời còn cho thêm vài đồng coi như lộ phí đi đường, cà phê cà pháo. Bởi vì cách kinh doanh đặc biệt đó, lại đánh đúng đối tượng nên các tài xế xe thích lắm, truyền tai nhau đến cửa hàng bà để thay phụ tùng xe khi cần. Nhờ cách làm ăn chân chính, bình dị gần gũi ấy mà cửa tiệm của ông bà Hảo ngày càng có nhiều khách hàng, công việc mua bán làm ăn thuận lợi, tiền kiếm được nhiều đếm không hết. Sau đó, thấy công việc này có vẻ ổn, ông Hảo bèn bàn bạc với người bà con dưới Trà Vinh để mở thêm chi nhánh ở dưới quê.

Đến năm 1933, ông Hảo mua được mảnh đất khá đẹp ở đường Galliéni, ông xây nhà ở đây và tiếp tục làm ăn. Còn căn nhà ông thuê ở số 21 – 23 đường Galliéni thì trả lại cho chú Hỏa. Về chỗ ở mới, ông vẫn tiếp tục công việc kinh doanh phụ tùng xe hơi và mở cây xăng dầu. Cho đến năm 1940, khi mà công việc kinh doanh của ông đã phát triển mạnh mẽ, ông chuyển sang nhập xe hơi nguyên chiếc để bán ở Sài Gòn cho người có nhu cầu. Thương hiệu xe hơi ông Hảo nhập về có cả Fiat, Lancia, Nash,… Ông Hảo cho bày xe ra cửa hàng để bán, nom như những showroom sang trọng ngày nay. Ông nhập xe hơi về với số lượng ít, tầm 2 – 3 chiếc Nash, sau này nhập thêm cả Fiat và Lancia. Về giá xe, một xe hơi ông thường bán với giá khoảng 2000 đồng bạc Đông Dương. Chưa dừng lại ở đó, ngoài việc buôn bán xe hơi, ông còn mở thêm garage để sửa xe hơi của tiệm ông bán và cả xe hơi của các tiệm khác, cứ hễ ai muốn sửa xe thì ông đều nhận, không phân biệt xe của tiệm nào. Nhờ thế mà ông cạnh tranh với cả những xe hơi của người Tây thời đó như garage Charner bán xe Peugeot, garage Hall bán xe Citroen hay garage Scama bán xe Ford.

Trong suốt con đường kinh doanh của mình, có lúc ông Hảo cũng gặp những vị khách lạ lùng, trong đó có cả vị khách tiếp theo đây. Vốn là người xuất thân nghèo khó nên ông Hảo không bao giờ phân biệt giàu nghèo, đối xử với khách hàng bình đẳng như nhau. Vào một buổi sáng nọ, tiệm ông vẫn mở cửa như mọi ngày thì thấy có một vị khách ăn mặc quê mùa, bận áo dài khăn đóng theo cách ăn mặc cũ tới hỏi mua xe hỏi. Lúc đầu nhân viên không định tiếp khách, nghĩ rằng ăn bận như thế thì chắc là người nghèo không có tiền mua xe hơi, có khi còn định ăn trộm không biết chừng! Nhưng lúc đó thấy ông Hảo đang ngồi gần đó vừa tính sổ sách vừa quan sát nên nhân viên không dám đuổi khách, đành đứng tiếp vị khách “áo dài khăn đóng” này. Sau một hồi đi vòng quanh để xem xe thì vị khách này muốn nhân viên đề máy cho mình xem, thấy ưng bụng nhưng ông ấy hỏi cộc lốc: “Bao nhiêu tiền?”, “Gần 3000 đồng bạc”, anh nhân viên trả lời dè dặt. Nghe xong, vị khách mở cửa xe rồi ngồi lên ghế nhún mấy cái rồi thủng thẳng nói: “Hình như nhíp hơi kêu. Anh cho thêm miếng dầu vô nhíp đi”. Dừng câu, vị khách đứng dậy, rốp rẻng kêu tính tiền.

Sau khi mua bán xong chiếc xe đó, ông Hảo còn vui vẻ cho nhân viên đem chiếc xe ra cây xăng đổ miễn phí cho vị khách này một thùng xăng đầy. Thế nhưng người khách đó chậm rãi lắc đầu, bảo chỉ cần cho xin 5 lít đủ chạy thôi. Ông Hảo lúc này hỏi lý do tại sao thì vị khác đó đó mới kể lại câu chuyện. Đó là lúc đầu, ông ấy thích chiếc Ford (xe hơi của Mỹ) được bày ở garage Scama người Pháp bán nên ông ấy đã vô đó hỏi mua. Nhưng mà nhân viên lẫn quản lý bên đó trông thấy bộ dạng ăn mặc kì lạ quê mùa này của ông nên đã không tiếp đãi, đã thế còn đuổi ông đi. Ông tức anh ách trong bụng nên đã đi qua garage của ông Hảo để mua xe. Xong xuôi ông sẽ sai người làm đem chiếc xe này qua garage Scama đã đuổi ông, đứng trước mặt quản lý người Pháp, nói gọn lỏn bằng tiếng Pháp: “Vì mày đuổi tao nên tao phải qua garage ông Nguyễn Văn Hảo mua chiếc này. Bây giờ tao chạy xe qua tiệm mày để mua xăng”. Ông chủ garage người Pháp thấy vậy nên hỏi chuyện, vị khách này mới kể câu chuyện này cho ông chủ người Pháp nghe. Khi nghe xong, ông ấy cho đuổi luôn quản lý người Pháp và cả nhân viên người Việt.

Sau vụ bán xe “đặc biệt” này, ông Hảo lời đến 600 đồng Đông Dương. Vị khách ấy lúc thanh toán tiền và làm thủ tục xong đã rút đằng sau lưng ra cái mo cau gập làm đôi, ông Hảo bất ngờ vì trong cái mo cau tưởng chừng như quê mùa ấy lại là xấp tiền 100 đồng bạc Đông Dương nhiều không kể siết. Một thời gian sau ông Hảo mới biết, vị khách “đặc biệt” kia cũng là một trong số người giàu ở miền Tây thời đó, là bạn khá thân của ông Trần Trinh Trạch. Ông Trạch đó là cha của công tự Bạc Liêu.

“Rạp hát Nguyễn Văn Hảo – Hàng không mẫu hạm” sức chứa cả ngàn người

Ông Hảo ngoài đam mê làm ăn thì ông còn một cái thú vui khác đó là… mê nghe cải lương. Vậy nên sau khi có tiền, ông liền mua đất xây luôn một cái nhà hát mang tên ông. Thời đó, đây là nhà hát có sức chứa lớn ở Sài Gòn, số người lên đến 1200 khách. Theo lời kể của ông Nguyễn Tâm Thạnh (hiện nay đã hơn 80 tuổi) – con trai của ông Nguyễn Văn Hảo cho biết, mặc dù cha của ông là dân kinh doanh nhưng vì là người miền Tây nên ông ấy mê cải lương lắm. Hồi đó, ở đằng trước nhà có một gánh hát bội nhỏ, cứ đến độ cuối tuần rảnh rỗi là ông Hảo lại ghé đây nghe hát. Việc ông Hảo cho xây rạp hát một phần vì ông muốn nghe cải lương, một phần vì ông muốn nghệ thuật cải lương này có đất để phát triển. Vậy nên ông ấy mới xây hẳn một rạp hát riêng như vậy.

Những năm 1940, ông Hảo bắt đầu mua đất và cho xây rạp mang tên Nguyễn Văn Hảo, mặt trước của rạp hướng về đường Galliéni (đường Trần Hưng Đạo bây giờ),mặt sau của rạp hướng về đường Bùi Viện. Theo ghi chép lại, rạp hát có 3 tầng khán phòng, tổng số ghế dành cho khách là 1200 ghế, đó là chưa kể những ghế phụ được đặt ở lối đường đi dành cho những hôm vé chính thức đã bán hết. Ở 3 lầu đó được sắp xếp theo cấp bậc. Lầu 3 cho khán giả thường, trang bị 300 ghế. Ghế được đóng bằng ván dài, xếp từ thấp lên cao như ghế trong rạp xiếc. Lầu 2 dành cho khách hạng nhì và hạng nhất, có 400 ghế da đỏ và có lưng dựa để khách hàng ngồi cho thoải mái. Cuối cùng là tầng trệt bao gồm 500 ghế bọc da đỏ, lầu này dành cho hạng thương gia và hạng nhất. Thời đó, rạp hát Nguyễn Văn Hảo là rạp có sức chứa lớn nhất Sài Gòn bấy giờ nên được mọi người gọi với cái tên là “hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo.

Trong những năm 1943 đến năm 1954, Sài Gòn có đến 4 rạp hát cải lương gồm có rạp Nguyễn Văn Hảo, rạp Aristo, rạp Thành Xương, rạp Thuận Thành nằm lần lượt ở các đường là Galliéni, Lê Lai, Yersin, Đa Kao. Trong 4 rạp cải lương đó thì rạp Nguyễn Văn Hảo là rạp lớn nhất, ngay cả sân khấu cũng rộng nhất và cả khán giá đến đây xem cũng rất nhiều. Vậy nên các đoàn hát cải lương càng muốn nâng cao kỹ thuật và nghệ thuật để biểu diễn cho người dân xem, qua đó nghệ thuật cải lương cũng sẽ dần phát triển hơn nữa. Lúc bấy giờ, rạp hát là nơi đoàn Việt Kịch Năm Châu về diễn tuồng Tây Thi gái nước Việt với cả đoàn cải lương của ông bầu Thu An – Hương Mùa Thu thực hiện kỹ thuật panorama – Đây là một nghệ thuật sân khấu cải lương còn mới lạ và thú vị với người dân Sài Gòn thời đó. Ngay cả đoàn hát có doanh thu cao nhất trong các đoàn cải lương những năm 1950 thời đó cũng về rạp Nguyễn Văn Hảo để hát, rạp Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao khi hát ở rạp này có ý nghĩ nhất định phải diễn tuồng mới, y trang mới, kỹ thuật diễn phải đẹp, tất cả mọi thứ phải tốt nhất và tốt hơn hẳn những đoàn hát trước đó.

Đối diện là rạp Nguyễn Văn Hảo trên đường Trần Hưng Đạo xưa

Phía bên phải là rạp hát Nguyễn Văn Hảo
Phía trước rạp Nguyễn Văn Hảo ngày xưa
Tướng Nguyễn Thành Phương phát biểu trước dân chúng tại rạp Nguyễn Văn Hảo trên đường Trần Hưng Đạo

Đường Trần Hưng Đạo nhìn xuống từ tầng lầu rạp Nguyễn Văn Hảo
Đường xéo bên trái là Đề Thám, bên phải là Nguyễn Thái Học và Trần Hưng Đạo
Hình ảnh cho thấy sức chứa cực lớn của “hàng không mẫu hạm” Nguyễn Văn Hảo

Cho đến năm 1970, rạp hát Nguyễn Văn Hảo được ông Hảo cho ông Nguyễn Văn Đối mướn lại để sửa thành rạp chiếu bóng, tên là ciné Nguyễn Văn Hảo. Các phim được chiếu ở rạp này là Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Thích ca đắc đạo,… Đến năm 1975, rạp được đổi tên là rạp Công Nhân.

Cứ tưởng Sài Gòn là mảnh đất làm ông Hảo trở nên giàu có thì ông sẽ chọn sống ở đây. Thế nhưng trong khi công việc làm ăn đang phát triển thì ông lại về quê, xây chùa và ở ẩn. Vào năm 1960, tỷ phú Nguyễn Văn Hảo tròn 70 tuổi, dường như khi vào độ tuổi xế chiều, con người ta chỉ còn thích những nơi thanh tịnh, yên bình để an dưỡng tuổi già, cả ông Hảo cũng không ngoại lệ.

“Chùa ông Hảo” hay còn gọi là Hảo Tâm tự là nơi ông Hảo ăn dưỡng khi vào cuối đời

Sau khi giao lại công việc làm ăn cho vợ con, ông Hảo về quê Trà Vinh và mua một mảnh đất rộng khoảng 15ha để xây cất chùa, đặt tên là Hảo Tâm tự. Chùa ông Hảo xây theo lối kiến trúc nửa tây nửa ta, trên mảnh đất rộng 8000m2 và kiến trúc sư Phan Hiếu Kỉnh chính là người vẽ bản thiết kế cho ngôi chùa ấy. Ngôi chùa này có tháp 9 tầng và có phù điêu rạp hát Nguyễn Văn Hảo cùng với chiếc du thuyền của ông Hảo. Vì ông Hảo cho xây ngôi chùa toàn bộ bằng vật liệu của Pháp, mà vật liệu ấy được vận chuyển từ nơi xa, giao thông không thuận tiện nên việc xây dựng chùa diễn ra khá lâu, phải mất đến 8 năm trời mới xây xong ngôi chùa Hảo Tâm tự. Xung quanh ngôi chùa là vườn hoa, cầu cuốn, hồ nước.

Chùa ông Hảo với tháp 9 tầng

Gần ngôi chùa, ông Hảo còn cho xây thêm một dãy phố lầu và khu chợ để mọi người lui tới làm ăn kiếm sống. Đến khi chiến sự phức tạp, mọi người phải bỏ cả ruộng đất để lánh nạn, ông Hảo đã cho mọi người tá túc trong chùa cũng như hỗ trợ cho họ lương thực và thuốc men. Tiếp đó ông Hảo còn cho bà con mượn đất đai quanh chùa để cày cấy. Những người lớn tuổi ở huyện Càng Long bây giờ mỗi khi nhắc lại đều thật tâm cảm ơn ông Hảo vì tấm lòng tốt bụng, thương người của ông.

Sau khi ông mất, ngôi chùa này được ủy nhiệm lại cho vợ là bà Nguyễn Thị Dài để chăm sóc nhang khói, đến khi bà Dài mất, ông Thạnh (con trai ông Hảo) sẽ là người kế nhiệm. Tất cả điều này đều được khắc chúc thư ở đá trắng trong chùa.

Ông Hảo mất năm 1971, đến năm 1975 chính quyền quản lý ngôi chùa, bà Dài được cho ở trong chùa đến năm 1979 thì bà cũng đi theo ông Hảo. Chính quyền huyện Càng Long thu lại hết đất của ngôi chùa này. Hiện nay, quanh ngôi chùa có một mảnh đất là nghĩa trang gia tộc của ông Hảo và có 6 ngôi mộ được xây giống nhau, đều có quyển sách ở trên mộ và 4 góc đều có sư tử đá.

Năm 1996, con trai của ông Thạnh nghe lời cha nên đã về lại vùng đất này và xây một cái chòi ở cạnh kế bên chùa nhằm chăm lo nhang khói cho tổ tiên. Sau này, chính quyền thâu dụng khu đất để xây bệnh viện, thư viện và khu vui chơi cho trẻ em.

Đất đai xung quanh chùa ông Hảo hiện tại được lấy để cất nhà cho người dân

Ông Nguyễn Văn Hảo cả một đời chỉ có tu chí làm ăn, không hề bê tha hay lơ là công việc hoặc sa đọa vào những thú vui tiêu khiển. Đến cuối đời ông còn xây chùa và giúp đỡ người dân. Đây đang là một điều mà tất cả mọi người cần phải noi theo.

Về phần đất đai quanh chùa thì như thế nào?

Theo tài liệu ghi chép lại, vào những năm 1928, 1932, 1933, ông Nguyễn Văn Hảo có mua 5 thửa đất tại tỉnh Vĩnh Bình (nay thuộc tỉnh Trà Vinh) với diện tích là 151.602m2, phần đất đó đều được ông Hảo quản lý. Đến năm 1960, ông Hảo xin cấp giấy phép để xây chùa Hảo Tâm tự và được chính quyền chấp thuận.

Năm 1966, ông Hảo và bà Dài làm đơn để hiến chùa và các căn nhà ở gần chợ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam với điều khoản là khi còn sống, ông bà sẽ được hưởng hoa lợi từ mảnh đất và ngôi chùa này để lại và sẽ duy trì hoạt động của chùa theo cách mà Giáo hội Phật giáo vẫn làm. Đến năm 1971, ông Hảo mất, vợ ông là bà Dài vẫn tiếp quản và lo nhang khói cho ngôi chùa. Nhưng đến năm 1976, vì thiếu người nên Giáo hội Trà Vinh đã có văn thư trao trả ngôi chùa này lại cho bà ngay sau khi làm xong thủ tục, vậy là bà Dài vẫn tiếp tục tiếp quản ngôi chùa Hảo Tâm này.

Thế nhưng sau đó Ủy ban cách mạng huyện Càng Long đã thu nạp tất cả tài sản của ông Hảo, trong đó có đất đai và cả ngôi chùa Hảo Tâm. Vậy nên ngày 24/9/1976, bà Dài đã viết thư đến Ủy ban cách mạng huyện Càng Long về việc xin lại ngôi chùa và diện tích lân cận bởi vì trong khu đất ấy có mồ mả của gia tộc, đồng thời bà cũng xin lại 15 công rẫy và 48 công ruộng để cày cấy. Nguyện vọng của bà được chấp thuận khi chính quyền nói sẽ trả lại cho bà 5 phòng và 5 công ruộng cho bà Dài. Mọi chuyện tưởng như đã ổn thỏa thì đến năm 1979 khi mà bà Dài qua đời, chính quyền một lần nữa thu lại ngôi chùa và đất đai của gia đình ông Hảo. Lúc này ông Thạnh lại một lần nữa làm đơn khiếu nại để xin lại đất và ngôi chùa. Cháu nội của ông Hảo còn cho hay, nhiều hộ dân đã chiếm dụng diện tích đất xung quanh chùa để xây nhà, thậm chí còn viết giấy tay để bán đất và được cấp sổ đỏ.

Về phần ngôi chùa, mặc dù bị bỏ hoang nhiều năm nhưng do được xây dựng từ những vật liệu chất lượng nên từ ngoài nhìn vào vẫn thấy được sự bề thế của nó. Nhưng mà khi đi sâu vô trong sẽ thấy cỏ mọc um tùm, bức tường của chùa thì nhem nhuốc, gắn đầy bảng quảng cáo với những nét vẽ nguệch ngoạc. Đến năm 1998, UBND tỉnh Trà Vinh đã lấy một phần đất của ngôi chùa giao lại cho Ủy ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em để xây dựng khu vui chơi, dãy nhà 16 căn cũng bị phá bỏ. Năm 1999, khu vui chơi cho trẻ em được xây dựng với kinh phí rất lớn nhưng hoạt động yếu kém, cuối cùng lại bị bỏ hoang.

Chẳng hiểu tại sao lại có chuyện này xảy ra khi mà sinh thời, ông Hảo rất được lòng dân, về phần con của ông – Ông Nguyễn Tâm Thạnh còn được Nhà nước trao tặng huân chương khi hết lòng ủng hộ kháng chiến. Năm 2004, ông Thạnh còn được Thủ tướng Phan Văn Khải trao tặng bằng khen. Lúc còn sống, ông Hảo giàu có là thế, vậy mà con của công lại phải rơi vào hoàn cảnh nghèo túng khi mà không được học hành đến nơi đến chốn, không có nghề nghiệp, thu nhập cũng không ổn định.

Ông Hảo mặc dù có 2 vợ nhưng chỉ có duy nhất một người con trai là ông Nguyễn Tâm Thạnh sinh ngày 1/1/1929 tại Càng Long. Đến khoảng 2 – 3 tuổi, ông Thạnh được cha đưa lên Sài Gòn và cho học ở trường Tây cùng với con của chú Hỏa. Đến khi cậu Thạnh được 6 – 7 tuổi, ông Hảo cho cậu lên Đà Lạt để học tiếp. Tuy nhiên, tính cách của ông Thạnh không giống với cha, không hợp nghề buôn bán, tính tình ông Thạnh khá nóng nảy, có hôm còn sửng cồ lên với khách hàng khi mà họ có yêu cầu quá đáng, ông Thạnh thậm chí còn đuổi luôn cả vị khách đó ra khỏi cửa tiệm.

Bạn bè của ông Thạnh cũng toàn là người có tiền. Ông Thạnh cũng khá ăn chơi khi mà ông cùng với con trai chú Hỏa lấy xe hơi chạy lên hướng Đồng Nai với vận tốc 200km/h và bị cảnh sát tịch thu bằng lái. Đến năm 1960, ông Hảo xây chùa ở Càng Long. Năm 1966, vợ đầu mất, ông Hảo dừng hẳn việc kinh doanh ở Sài Gòn và về quê sinh sống. Garage đằng sau nhà với cây xăng trước nhà được ông giao lại cho ông Thạnh quản lý. Sau nhiều biến cố xảy ra, gia đình con cháu của ông Hảo lâm vào cảnh nghèo khó. Ông Thạnh cưới vợ và có với nhau 9 người con nên càng rơi vào tình cảnh thiếu ăn thiếu mặc, ông đành bán tài sản trong nhà để có tiền mua gạo nuôi vợ con. Con cái ông Thạnh chỉ được học đến lớp 5 – 6 rồi nghỉ giữa chừng. Trưởng thành thì mỗi người một công việc, đa số đều là lao động chân tay.

Sau năm 1975, ông Thạnh được sống trong 2 lầu dãy phía trước của căn nhà, ở dưới trệt thì được nhà nước quản lý và cho thuê. Từ năm 1978 đến năm 1982, chính quyền sẽ trả cho ông Thạnh mỗi tháng là 62 đồng. Đến năm 2007, ông Thạnh mới nhận được 1 lần 24 triệu đồng. Mang tiếng là nhà 4 mặt tiền nhưng mà hầu như trong nhà không còn gì giá trị, bởi lẽ mọi thứ đã bị ông Thạnh đem đi bán mỗi khi túng thiếu.

Căn nhà Nguyễn Văn Hảo 4 mặt tiền cũ kỹ

Vào năm 1933, ông Hảo mua mảnh đất khá đẹp với 4 mặt tiền đường lần lượt là đường Trần Hưng Đạo – Ký Con – Yersin – Hồ Văn Ngà ngày nay để xây dựng căn nhà có tổng diện tích 800m2. Căn biệt thự ấy được xây dựng trong 4 năm từ năm 1933 đến năm 1937 theo lối kiến trúc của Pháp. Vì thời đó chưa có xi măng nên người ta phải dùng mủ cây trộn với vôi cát và nước để xây. Hai bên hông của căn biệt thự có khắc chữ “NG.V.HAO”. Có một hồ bơi nhỏ ở tầng trên cùng của tòa nhà. Cả tòa nhà tuy chỉ có 2 lầu nhưng được gắn cả thang máy để di chuyển.

Dưới đây là hình ảnh của căn nhà hiện tại

Hai bên hông nhà được khắc chữ viết tắt của tên Nguyễn Văn Hảo
Hình ảnh chụp đằng trước và bên hông nhà ông Nguyễn Văn Hảo
Hình ảnh bên hông nhà của tỷ phú Nguyễn Văn Hảo
Bên trong căn nhà của ông Nguyễn Văn Hảo với nội thất cũ kỹ không được tu sửa
Ông Nguyễn Tâm Thạnh – Con trai duy nhất của ông Hảo
Căn nhà Nguyễn Văn Hảo hiện nay
Bên dưới tòa nhà được dùng để cho thuê mặt bằng kinh doanh
Gạch lót nền của căn nhà được mua từ Pháp
Cánh cửa của căn nhà vẫn giữ được nét xưa cũ
Những vật dụng bên trong căn nhà cũng đã cũ xưa
Bàn thờ tổ tiên của nhà ông Nguyễn Văn Hảo
Nhìn toàn diện căn nhà từ bên ngoài
Chữ viết tắt của tên chủ nhà được khắc nổi
Hình ảnh sân sinh hoạt chung của tòa nhà
Một góc phía bên trên của tòa nhà hiện nay

Hàng lang đi lên sân thượng
Tòa nhà giống như một con tàu, mũi tàu hướng ra đường Trần Hưng Đạo. Căn nhà nhỏ trong hình là nơi gắn thang máy để ông Hảo lên sân thượng thưởng trà
Hành lang nối giữa hai tòa nhà
Ông Hảo là người rất mê chim muông và cây cảnh nên đã thiết kế sân thượng rộng rãi, đặt tên Lầu huê viên N. V. HAO
Ở trên sân thượng của tòa nhà
Hồ bơi trên sân thượng
Bàn đá trên sân thượng là nơi ông Hảo ngồi thưởng trà
Con trai ông Hảo đang bồi hồi nhớ kể lại câu chuyện của nhà ông
Bên dưới căn nhà được cho thuê và ông Thạnh sống ở trên

Ông Nguyễn Văn Hảo một đời tu chí làm ăn là thế, giàu có là thế, cho đến khi cuối đời ông vẫn xây chùa chiền và làm việc thiện giúp đỡ dân lành. Vậy mà cuộc đời của con cháu ông lại cơ cực và nghèo túng đến vậy. Quả thực cuộc đời của con người không thể nói trước được điều gì.

5/5 - (1 bình chọn)

Viết một bình luận