Trước năm 1975, Thẩm Thúy Hằng là một nữ “minh tinh màn bạc” nổi tiếng theo cách gọi thời bấy giờ, bởi không chỉ đóng rất nhiều phim trong nước mà Thúy Hằng còn tham gia nhiều phim trong khu vực Đông Nam Á. Nổi lên từ vai diễn Tam Nương trong phim “Người đẹp Bình Dương”, Thẩm Thúy Hằng mang luôn biệt danh này do công chúng ái mộ đặt và trở thành biểu tượng nhan sắc phụ nữ một thời ở Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung.
Thẩm Thúy Hằng không chỉ đóng phim mà còn đóng kịch và cũng khá nổi tiếng trên sân khấu kể cả trước và sau giải phóng. Là một “mỹ nhân”, lại là người nổi tiếng đối với công chúng suốt mấy thập niên, nhưng Thẩm Thúy Hằng ở tuổi xế chiều có cuộc sống hoàn toàn khép kín, bà tu tại gia, nghiên cứu Thiền học, làm từ thiện, hầu như ít tiếp xúc với bên ngoài. Cuộc đời của một “minh tinh màn bạc”, một phụ nữ “sắc nước hương trời”, sự nghiệp nghệ thuật lẫy lừng đã kết thúc với số phận nghiệt ngã
Cô gái sinh năm 1941 tại hải Phòng có cái tên giản dị Nguyễn Kim Phụng – chính là tên trong khai sinh của “Người đẹp Bình Dương”. Cô cùng với gia đình di cư vào Nam và ngụ tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang. Lúc nhỏ, Kim Phụng học tại trường tiểu học Huỳnh Văn Nhứt, TP. Long Xuyên. Hết bậc Tiểu học, Kim Phụng lên Sài Gòn ở với người chị theo học Trung học tại trường Huỳnh Thị Ngà, Tân Định. Năm Kim Phụng lên 16 tuổi học lớp Đệ tứ (lớp 9 bây giờ) nức tiếng là một hoa khôi “Tuổi mới lớn” trong giới học sinh.
Cũng chính năm ấy, hãng phim Mỹ Vân – một hãng phim lớn, nổi tiếng lúc bấy giờ tổ chức cuộc thi tuyển diễn viên điện ảnh. Cô gái vừa chớm tuổi trăng tròn Kim Phụng đã lén gia đình và vượt qua 2000 cô gái đẹp khác trên khắp miền Nam tham dự tuyển. Với nhan sắc trời cho và khả năng thiên phú, Kim Phụng đã xuất sắc giành giải nhất. Ông bà chủ hãng phim Mỹ Vân đã đặt cho Kim Phụng nghệ danh Thẩm Thúy Hằng, và gửi Thúy Hằng đi Hồng Kông dự lớp đào tạo diễn xuất ngắn ngày. Từ đây, cô gái 16 tuổi Kim Phụng đã có cơ hội vàng bước vào lĩnh vực “nghệ thuật thứ 7”, với một bước ngắn thôi, nhưng đã khiến Kim Phụng nhảy vọt rất xa lên tuyệt đỉnh vinh quang.
Với vai diễn đầu tiên: Tam Nương trong phim “Người đẹp Bình Dương” một phim đen trắng của hãng phim Mỹ Vân do nghệ sĩ Năm Châu đạo diễn, ra mắt công chúng năm 1958, Thẩm Thúy Hằng đã nổi lên như một ngôi sao điện ảnh và chinh phục hoàn toàn sự hâm mộ nồng nhiệt của khán giả màn ảnh rộng lúc bấy giờ. Cái tên “Người đẹp Bình Dương” đã theo Thúy Hằng đi suốt cuôc hành trình nghệ thuật những thập niên 50 – 60 … cho đến ngày giải phóng 1975.
Sau khi trở thành một ngôi sao tỏa sáng trong làng điện ảnh, Thẩm Thúy Hằng được các hãng phim lúc bấy giờ mời vào vai chính liên tục. Bà đóng rất nhiều phim (khoảng 60 phim) và trở thành nữ minh tinh số 1 với tiền cát-xê 1 triệu đồng cho một vai diễn (tương đương 1kg vàng 9999 thời bấy giờ). Ngoài vai diễn đầu tiên Tam Nương trong phim “Người đẹp Bình Dương”, một vai diễn khác cũng rất đẹp của Thẩm Thúy Hằng từng gây được tiếng vang góp phần đưa tên tuổi của bà lên nấc thang danh vọng, đó là vai Chức Nữ trong bộ phim “Ngưu Lang Chức Nữ” cũng do hãng phim Mỹ Vân sản xuất, do NSND Năm Châu đạo diễn. Khán giả không thể nào quên được nàng Chức Nữ đẹp lộng lẫy, sương khói đang bay về trời trong tiếng hát thánh thót như ngân lên từ những áng mây huyền ảo, thần tiên trong nhạc cảnh “Chức Nữ về trời” do Phạm Duy soạn nhạc cho bộ phim.
Trong số lượng phim đồ sộ do Thẩm Thúy Hằng tham gia đóng vai chính, có thể kể đến một số bộ phim nổi tiếng như: “Trà Hoa Nữ”, “Tấm Cám”, “Sự tích Trầu Cau”, “Bạch Viên – Tôn Cát”, “Nửa hồn thương đau”, “Đôi mắt huyền”, “Dang dở”, “Tơ tình”, “Oan ơi Ông Địa”, “Bóng người đi”, “Ngậm ngùi”, “Sóng tình”, “10 năm giông tố”, “Xin đừng bỏ em” … Những phim đó, Thẩm Thúy Hằng đã đóng chung với các tên tuổi “gạo cội” trong làng diễn viên điện ảnh cũng như sân khấu cải lương lúc bấy giờ như: La Thoại Tân, Kim Cương, Trần Quang, Thanh Thúy, Thành Được, Út Bạch Lan, Túy Hoa.
Có thể nói giai đoạn rực rỡ nhất của Thẩm Thúy Hằng là khoảng thời gian 1965 – 1972, phim nào có bà đóng cũng đạt doanh thu rất cao. Năm 1969, Thẩm Thúy Hằng đã đứng ra thành lập hãng phim riêng mang chính tên của bà là hãng phim Thẩm Thúy Hằng (tiền thân của hãng phim Vilifilms sau này). Với kinh nghiệm của mình, Thẩm Thúy Hằng chọn bộ phim “Chiều kỷ niệm” để chiếu ra mắt. Đây là bộ phim tình cảm xã hội do Lê Mộng Hoàng đạo diễn, với dàn diễn viên “gạo cội” bên cạnh Thẩm Thúy Hằng thủ vai chính như: Phùng Há, Năm Châu, Kim Cúc, Thanh Tú, Huy Cường, Việt Hùng, Ngọc Nuôi … Tuy là phim đen trắng, nhưng phim rất thành công, từ ngày chiếu ra mắt, khán giả nô nức mua vé vào xem kín rạp.
Từ thành công ban đầu khi lập hãng phim riêng, Thẩm Thúy Hằng cùng ê kíp cộng sự đã làm tiếp bộ phim “Hạt mưa sa” năm 1971, chuyển thể kịch bản từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Ngọc Linh, do Bùi Sơn Duân đạo diễn với dàn diễn viên nổi tiếng như: Trần Quang, Đoàn Châu Mậu, Bạch Tuyết, Diễm Kiều … Đặc biệt trong bộ phim này, Thẩm Thúy Hằng đảm nhận cùng lúc hai vai, đó là hai chị em sinh đôi nhưng tính cách trái ngược nhau như nước với lửa và rất thành công cả hai vai.
Bộ phim này cũng rất thành công nên Thẩm Thúy Hằng quyết định làm tiếp phần 2 của bộ phim là “Như giọt sương khuya”. Đây là phim màu đầu tiên của hãng phim Thẩm Thúy Hằng để mở đầu cho kỷ nguyên làm phim màu nở rộ sau đó. Cuối năm 1874, khi hãng phim đổi tên là Vilifilms, bà chủ Thẩm Thúy Hằng đã tiến lên một bước, mở rộng hợp tác làm phim với nước ngoài như: Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Singapore, Indonesia kể cả Pháp, Tây Đức, Mỹ, Liên Xô. Và đã có một loạt phim hợp tác như: “Vàng”, “Sóng tình”, “Sài Gòn vô chiến sự” …
Không chỉ hợp tác làm phim, đóng phim ở nước ngoài mà đi đâu, dự bất cứ cuộc liên hoan phim nào, Thẩm Thúy Hằng cũng đều được trọng vọng, sánh ngang hàng với các diễn viên nổi tiếng nước ngoài. Đây là một trường hợp đặc biệt, hiếm có. Đặc biệt, những sự ân sủng này chính là nhờ sự nổi tiếng, nhan sắc và tài năng của bà. Đồng thời những năm đó, không chỉ tham gia đóng phim tình cảm tâm lý xã hội, Thẩm Thúy Hằng cũng bước sang lĩnh vực phim hài và phim kinh dị như: “Chàng ngốc gặp hên”, “Giỡn mặt tử thần” … Ở lĩnh vực nào, bà cũng thành công.
Trên đỉnh cao danh vọng
Chính nhờ vào tài năng và nhan sắc, Thẩm Thúy Hằng đã đạt được đỉnh cao danh vọng khi liên tục nhận được những giải thưởng cao của điện ảnh Châu Á và quốc tế như: Hai lần đoạt giải diễn viên xuất sắc Á Châu tại LHP Đài Bắc, Ảnh hậu Á Châu trong LHP Á Châu tổ chức tại Hồng Kông và Đài Loan năm 1972 – 1974, Nữ diễn viên khả ái nhất tại LHP Mát-cơ-va và Tasken tại Liên Xô năm 1982, vượt qua những nữ diễn viên xinh đẹp đến từ Đông Âu, Nhật Bản, Trung Quốc, Mông Cổ …
Thành công và nổi tiếng trên lĩnh vực điện ảnh, Thẩm Thúy Hằng cũng nổi tiếng và thành công cả trên lĩnh vực kịch nói, cải lương, tân nhạc. Ban kịch Thẩm Thúy Hằng sánh ngang vai với những ban kịch nổi tiếng thời bấy giờ như: Kim Cương, Mộng Tuyền, Dân Nam, Tân Dân Nam, Túy Hoa – Túy Phượng, Duy Lân, La Thoại Tân … và được xếp vào “top ten” những ban kịch nổi tiếng, đồng thời, bà cũng được xếp vào danh sách 12 diễn viên sáng giá của kịch nghệ miền Nam. Thẩm Thúy Hằng không chỉ đóng vai trò Trưởng ban kịch mà còn viết kịch bản, thủ vai chính. Một số vở kịch phát trên sóng truyền thanh hay trên màn ảnh nhỏ thời đó có sự góp mặt của Thẩm Thúy Hằng được khán giả ghi nhớ như: “Sông dài”, “Vũ điệu trong bóng mờ”, “Người mẹ già”, “Đôi mắt bằng sứ”, “Suối tình”, “Dạt sóng”, …
Ở lĩnh vực cải lương, Thẩm Thúy Hằng cũng rất thành công trong một số vở diễn như “Đò chiều”, “Đôi mắt huyền”. Đặc biệt, sau vai diễn ghi dấu ấn của Thẩm Thúy Hằng trên sân khấu cải lương là vai vũ nữ Cẩm Lệ trong vở “Bóng chim tăm cá” của Đoàn Thanh Minh – Thanh Nga.
Trước năm 1975, Thẩm Thúy Hằng cũng thường xuyên xuất hiện trên sân khấu “Đại nhạc hội”, nhưng không phải diễn kịch, đóng cải lương mà là hát tân nhạc. Một số ca khúc do Thẩm Thúy Hằng thể hiện trên lĩnh vực này tương đối thành công là “Hai chuyến tàu đêm” của Trúc Phương và “Tình lỡ” của Thanh Bình. Ngoài ra, hình ảnh của Thẩm Thúy Hằng đi liền với Thanh Nga thường xuyên xuất hiện trên bìa các báo xuân và lịch tết với biểu tượng một người là “Nữ hoàng điện ảnh” còn người kia là “Nữ hoàng sân khấu cải lương”. Cả hai đều đại diện cho nhan sắc người phụ nữ được nhiều người ái mộ.
Sau sự kiện 1975, trong lúc một số nghệ sĩ chạy ra nước ngoài định cư thì Thẩm Thúy Hằng cùng chồng là Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh từ chối những cơ hội ra đi mà chọn con đường ở lại quê nhà. Ông Nguyễn Xuân Oánh từng làm Phó Thủ tướng kiêm Thống đốc Ngân hàng chế độ cũ, sau đó là Quyền Thủ tướng trong 2 năm: 1964 – 1965. Sau năm 1975, có thời gian ông làm cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ông Nguyễn Xuân Oánh mất vào ngày 29/8/2003 vì bệnh tim, thọ 82 tuổi. Mọi người đều nhìn nhận rằng chính ông Nguyễn Xuân Oánh (lớn hơn Thẩm Thúy Hằng 20 tuổi) đã ảnh hưởng rất nhiều tới tên tuổi, cuộc đời và sự nghiệp của Thẩm Thúy Hằng qua hai giai đoạn biến cố của lịch sử. Do đó nói về Thẩm Thúy Hằng mà không nhắc tới ông Nguyễn Xuân Oánh là điều thiếu sót.
Một bông hồng và nhân duyên trời định
Ông Nguyễn Xuân Oánh sinh năm 1921 tại Bắc Giang, đã từng theo học ngành kinh tế Đại học Harvard, trường Đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ và trên thế giới. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ kinh tế vào năm 1954 và làm việc tại Ngân hàng Thế giới một thời gian trước khi về nước đảm nhận vai trò Thống đốc Ngân hàng quốc gia vào năm 1963 (sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính). Có giai thoại kể rằng năm GS TS Nguyễn Xuân Oánh về nước, vừa bước xuống phi trường Tân Sơn Nhất có một hàng rào người đẹp Sài Gòn đón chào và tặng hoa. Chính “Người đẹp Bình Dương” nổi tiếng đã gắn lên ve áo vest của ông Nguyễn Xuân Oánh một bông hồng đỏ thắm. Không ngờ đóa hồng định mệnh này đã tạo cơ hội cho cả hai quen nhau, một chính khách đang nổi lên trên chính trường và cô nữ minh tinh khả ái. Và chuyện phải đến đã đến. Sau đó, họ thành vợ chồng, vượt qua tất cả những xì xào, bàn tán của dư luận một thời.
Chuyện kể rằng trong giai đoạn GS TS Nguyễn Xuân Oánh tham gia chính trường chế độ cũ, trong những buổi tiếp tân, chiêu đãi chính khách, quan khách trong ngoài nước, nhiều “mệnh phụ phu nhân” vợ của chính khách, tướng tá đã tỏ vẻ khó chịu khi phải sánh ngang hàng với Thẩm Thúy Hằng – phu nhân của Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Oánh, họ cho rằng bà không xứng đáng để ngồi cùng bàn, ăn cùng mâm, đi đứng ngang hàng với họ vì bà thuộc đẳng cấp khác, hay nói thẳng ra là “phường xướng ca vô loài”. Có lẽ nhận thấy điều này và tránh cho chồng phải khó xử nên những lần sau, Thẩm Thúy Hằng từ chối, không tham gia những bữa tiệc sắc mùi chính trị và phân chia giai cấp ấy nữa.
Là một người được học hành tử tế, tốt nghiệp ở một trường Đại học danh giá về một ngành đang rất cần cho cải cách kinh tế, GS TS Nguyễn Xuân Oánh về nước trong sự trọng vọng của đám chính khách đang lên nắm thời cơ “thay đổi vận mệnh đất nước”. Hết cuộc đảo chính này tới cuộc đảo chính khác, Tướng “râu dê” Nguyễn Khánh lên nắm quyền và trọng dụng ngay GS TS Nguyễn Xuân Oánh trong vai trò Phó Thủ tướng trong khi đó ngoài Dương Văn Minh (Minh lớn) là gương mặt quen thuộc của quân đội nhảy ra làm chính trị, cầm đầu cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm thì Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ một vị tướng bộ binh, một vị tướng không quân mới bắt đầu xuất hiện, lăm le nhảy vào vũ đài chính trị với những canh bạc do Mỹ cầm lái. Chính vì thế nên các đời “Tổng thống Việt Nam Cộng hòa” của bất cứ nhóm nào lên thay cũng đều nể trọng ông Nguyễn Xuân Oánh và muốn giữ ông lại để phục vụ cho bộ máy chính quyền mà một gương mặt trí thức sáng giá, có học vị, ngoài quân đội như GS TS Nguyễn Xuân Oánh trong giai đoạn cần thu phục nhân tâm trong tình thế xã hội hỗn loạn như thế nhóm cầm quyền nào cũng rất cần.
Nhan sắc và tài năng
Sau 30/4/1975, việc quyết định ở lại phục vụ quê hương của vợ chồng ông Nguyễn Xuân Oánh – Thẩm Thúy Hằng trong khi họ có rất nhiều cơ hội và sự tác động để ra đi là sự lựa chọn sáng suốt và chắc chắn quyết định này là của ông Nguyễn Xuân Oánh. Trong giai đoạn khó khăn của đất nước sau ngày giải phóng, vợ chồng ông Nguyễn Xuân Oánh tham gia phục vụ cách mạng ở hai cương vị khác nhau. Ông Nguyễn Xuân Oánh được tin tưởng trong vai trò cố vấn kinh tế của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông cũng được bầu vào Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, đại biểu Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Còn nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng thì tiếp tục đóng phim, diễn kịch tham gia trên lĩnh vực Văn hóa nghệ thuật để phục vụ cách mạng. Bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú. Một số phim Thẩm Thúy Hằng đóng trong giai đoạn sau 1975 ghi đậm dấu ấn như: “Như thế là tội ác”, “Ngọn lửa Krông Zung”, “Hồ sơ một đám cưới”, “Đám cưới chạy tang”, “Cho cả ngày mai”, “Nơi gặp gỡ của tình yêu” …
Sân khấu kịch nói cũng là lĩnh vực nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng phô diễn tài năng của mình và nhiều vai của bà trong hàng loạt vở kịch nói đã làm sáng thêm tên tuổi Thẩm Thúy Hằng và được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú để ghi nhận sự đóng góp của bà trên lĩnh vực nghệ thuật nói chung vào sau năm 1975 như: “Cho tình yêu mai sau”, “Đôi bông tai”, “Hoa sim gai trắng”, …
Không chỉ tham gia diễn xuất trong vai trò diễn viên, Thẩm Thúy Hằng còn sáng tác kịch bản sân khấu như “Người hạnh phúc”, “Nụ cười và nước mắt” đã được dàn dựng trên sân khấu nhỏ. Nhưng có lẽ vai diễn mang đậm dấu ấn của bà trên lĩnh vực sân khấu và sự nghiệp nói chung là vai Phồn Y trong vở “Lôi vũ” của đoàn kịch nói Kim Cương trước khi từ giã sân khấu, phim ảnh, sống ẩn mình vì biến chứng của chất silicon mà bà đã từng bơm vào da thịt để giữ gìn sắc đẹp một thời. Và cũng chính nhờ thế mà bà trở nên lộng lẫy, là biểu tượng của nữ hoàng nhan sắc suốt một thời tuổi trẻ.