Đoàn Chuẩn được biết đến là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc trữ tình Việt Nam vào những năm thập niên 1950. Những ca khúc do nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sáng tác có giai điệu và ca từ đẹp, lãng mạn, cuốn người nghe. Bởi thế nên tuy số lượng sáng tác ít ỏi, chưa tới 20 bài, nhưng những nhạc phẩm đã công bố của ông đều là những nhạc phẩm để đời và đa số đều quen thuộc với khán thính giả yêu nhạc như: Đường về Việt Bắc, Lá đổ muôn chiều, Tình nghệ sĩ, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Gửi gió cho mây ngàn bay, Gửi người em gái miền Nam… Không những nổi tiếng là một nhạc sĩ tài hoa, Đoàn Chuẩn còn nổi tiếng là một nghệ sĩ đào hoa, phong lưu và đầy chất chơi nên thời bấy giờ ông được người đời đặc cho nhiều biệt danh như: “Ông hoàng nhạc tình”, “Công tử Bạc Liêu xứ Bắc” hay “Nhạc sĩ của mùa thu”…
Đoàn Chuẩn sinh ngày 15 tháng 6 năm 1924 tại Hải Phòng, ông là con trai thứ hai của Đoàn Đức Ban – chủ hãng nước mắm Vạn Vân nổi tiếng và lớn nhất trên toàn cõi Đông Dương lúc bấy giờ, thậm chí hãng nước mắm của gia đình ông đã đi vào tục ngữ được mọi người truyền nhau “ Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần,Nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét.”
Từ nhỏ, Đoàn Chuẩn đã học tây ban cầm với Nguyễn Thiện Tơ, sau đó học Hạ uy cầm với William Chấn – họ đều là những nghệ sĩ guitar tài danh thuộc thế hệ đầu của Việt Nam.
Năm 1946, Đoàn Chuẩn cùng gia đình chuyển về Thanh Hóa, ông vào Liên khu 4, tại đây ông gặp Tô Vũ, Tạ Phước cùng đi hát với Ngọc Bích và sáng tác bài Tình Nghệ Sĩ (1947). Sau đó, Đoàn Chuẩn theo một đoàn cứu thương lên Việt Bắc và sáng tác bài “Đường về Việt Bắc”. Theo một số tài liệu thì ca khúc đầu tiên Đoàn Chuẩn sáng tác là bài “Ánh trăng mùa thu” , được ông viết vào năm 1947 tại làng Đống Năm, Đông Hưng, Thái Bình (ca khúc này gắn với một kỷ niệm của nhạc sĩ về làng Khuốc (đất chèo))
Năm 1950, Đoàn Chuẩn trở về từ khu kháng chiến, lúc này ông bắt đầu phát hành một loạt ca khúc đã sáng tác từ trước, đồng thời viết thêm một số bài mới. Những ca khúc ông sáng tác đều được phát trên đài phát thanh và được khán thính giả yêu thích tân nhạc đón nhận nồng nhiệt. Các bài hát đó cũng được Tinh Hoa Huế xuất bản dưới tên “Nhạc Đoàn Chuẩn – Lời Từ Linh”.
Trong hầu hết các ca khúc do mình sáng tác, Đoàn Chuẩn thường ký bút danh Đoàn Chuẩn – Từ Linh. Hơn thế, tờ nhạc của những bài hát nổi tiếng như “Tình nghệ sĩ”, “Thu quyến rũ” chỉ để tên tác giả là Từ Linh chứ không ghi bút danh Đoàn Chuẩn. Có nhiều thông tin khác nhau về nhân vật Từ Linh này, bởi lẽ không ai biết chính xác Từ Linh là ai, ngay cả bản thân nhạc sĩ Đoàn Chuẩn lúc sinh thời cũng không nói rõ tại sao trong các sáng tác của mình đều có tên tác giả là Từ Linh. Vì thế có rất nhiều đồn đoán về nhân vật này. Có người nói ông là anh em kết nghĩa với Đoàn Chuẩn, có người nói ông là thợ nhiếp ảnh, lại có người khác nói ông là tài xế riêng của Đoàn Chuẩn. Nhiều người lại cho rằng Đoàn Chuẩn – Từ Linh là một, chỉ là cái tên mà Đoàn Chuẩn thích cho thêm vào mà thôi.
Theo thông tin trên báo “Người Đô Thị” thì Từ Linh là một người bạn thân thiết với Đoàn Chuẩn. Từ Linh tên thật là Hà Đình Thâu (1928 – 1992), ông là một người tài hoa nhưng rất kín đáo, kiệm lời, thậm chí có nhiều người sống gần nhà cũng không biết ông chính là Từ Linh trong những sáng tác của Đoàn Chuẩn. Từ Linh thích làm thơ, chơi nhạc nhưng chỉ là để thỏa mãn sở thích riêng của mình. Từ Linh và Đoàn Chuẩn thường hay gặp nhau, cùng nhau chụm đầu vào chiếc máy đĩa cối để nghe nhạc, thầm thì to nhỏ rồi thỉnh thoảng lại phá lên cười với nhau. Hai ông rất ít khi nói về việc sáng tác với người ngoài, dường như hai ông muốn giữ riêng cho mình và chỉ nghĩ đó là những việc làm cho vui chứ không nghĩ sau này sẽ có ngày người ta lại muốn tìm hiểu về điều này. Được biết sau khi Từ Linh mất, Đoàn Chuẩn có sáng tác thêm một số bài, nhưng ông vẫn để tên hai người như một sự trân trọng và tôn vinh tình bạn đã góp phần tạo cảm hứng nghệ thuật. Tuy nhiên cho đến nay, việc Từ Linh có tham gia như thế nào vào quá trình sáng tác những ca khúc để đời mang tên Đoàn Chuẩn – Từ Linh vẫn là một ẩn số vì những người trong cuộc đều đã không còn nữa.
Năm 1954, sau hiệp định Geneve, Đoàn Chuẩn chọn ở lại Hà Nội chứ không di cư vào Nam như nhiều nhạc sĩ sáng tác nhạc lãng mạn khác. Ông chỉ tập trung sáng tác nhiều ca khúc trong một thập niên từ 1947-1958, với sáng tác đầu tay là “Ánh trăng mùa thu” được viết vào năm 1947 sau đó có thêm nhiều ca khúc nổi tiếng vượt thời gian như: Tình nghê sĩ (1947), Đường về Việt Bắc (1948), Lá Thư (1949), Thu quyến rũ (1950, Chuyển bến (1952), Gửi gió cho mây ngàn bay (1952), Cánh hoa duyên kiếp (1953), Lá đổ muôn chiều (1954); Tà áo xanh, Chiếc lá cuối cùng, Để có những chiều tắt nắng, Vàng phai mấy lá (1955); Gửi em gái miền Nam (1956),… và một vài ca khúc được sáng tác rải rác trong những thập niên sau này như: Một Gói Nho Khô, Một Cánh Pensée (1988), Phấn Son (1989), Mầu Nắng Có Bao Giờ Phai Đâu (1989).
Có rất nhiều ca sĩ nổi tiếng đã trình bày các sáng tác của Đoàn Chuẩn như: Mộc Lan, Thái Thanh, Lệ Thanh, Minh Hiếu, Lệ Thu, Khánh Ly, Mai Hương, Ánh Tuyết, Bằng Kiều, Tùng Dương,…
Nhắc đến Đoàn Chuẩn người ta lại nhớ đến những ca khúc về mùa thu. Trong 10 tình khúc nổi tiếng nhất của ông, thì có đến 9 nhạc phẩm viết về mùa thu, duy chỉ có bài Gửi Người Em Gái Miền Nam là viết về mùa xuân, nhưng trong ca khúc vẫn xuất hiện hình ảnh của một mùa thu đã xa.
Lúc sinh thời, Đoàn Chuẩn từng chia sẻ: “Giời đất cho ta đủ cả bốn mùa, nhưng hình như chỉ có mùa thu là mùa của tình yêu, vì mùa hè thì oi bức, ồn ào quá; còn mùa đông lại giá lạnh, cô quạnh quá; mùa xuân thì vạn vật còn mải “rong chơi”…” Chắc có lẽ vì thế mà ông đã sáng tác nên những ca khúc về mùa Thu đầy xúc cảm và làm say mê biết bao thế hệ suốt những thập niên qua.
Tác giả Nguyễn Thụy Kha từng nhận xét về nhạc của Đoàn Chuẩn như sau: “Trong giai điệu của ông, ta cảm thấy có tiếng lá rơi nhè nhẹ, có tiết heo may se lạnh, có cả mùi thơm của cốm ủ lá sen. Nghe giai điệu của ông, ta cảm thấy bâng khuâng, yêu thương, luyến tiếc. Hơn nữa, còn thấy phảng phất ở giai điệu ấy hình bóng huyền diệu của những “tuyệt sắc giai nhân” đã hơn một lần làm xao xuyến trái tim “chàng công tử Hà Nội” dịu dàng và đa tình này.
Vẫn một tình nghệ sĩ ấy, vẫn một tà áo xanh ấy, vẫn gặp gỡ và chia tay muôn thuở. Nhưng trong giai điệu của Đoàn Chuẩn, mùa thu Hà Nội đã luồn vào trong từng ngóc ngách, trong từng cung bậc….”
Đoàn Chuẩn lập gia đình khá sớm, khi ông còn học trường trung học Louis Pasteur. Thuở ấy, Đoàn Chuẩn là một cậu công tử nhà giàu có chiếc xe Ford Frégatte và chiếc Buick, thuộc loại sang nhất không những ở thành phố cảng Hải Phòng mà cả ở Hà Nội. Là một chàng trai hào hoa, phong nhã cùng gia cảnh giàu có nhưng ông lại say mê cô nữ sinh cùng lớp tên Nguyễn Thị Xuyên. Một cô gái có xuất thân không mấy khá giả nhưng gia đình rất gia giáo cùng nhan sắc mỹ miều, đoan trang, hiền thục. Chưa một lần hẹn hò nhưng Đoàn Chuẩn nhất quyết về xin thân mẫu qua hỏi cưới cô nàng mà ông thầm yêu về làm vợ.
Câu chuyện đó cũng đã được nghệ sĩ Đoàn Đính – con trai của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn kể về cha mẹ như sau: “Thời đó, Đoàn Chuẩn và bà Nguyễn Thị Xuyên học chung một lớp, cả hai đều nói tiếng Anh và Pháp rất giỏi. Quá si mê cô gái đẹp người đẹp nết, Đoàn Chuẩn về xin bố mẹ cho cưới vợ. “Bà nội tôi liền đến nhà mẹ tìm hiểu thì thấy gia đình nhà mẹ rất gia giáo và đồng ý liền. Chiến tranh ngăn cách, gia đình nhà tôi chia ra làm hai, một nửa lên chiến khu Việt Bắc, một nửa ở lại. Mẹ tôi ngày đó hay mặc áo tím, khi bố lên thăm mẹ bồi hồi quá viết luôn ca khúc Đường Về Việt Bắc nên mới có hình ảnh người con gái áo tím trong bài hát”.
Một trong những điều mà nhạc sĩ Đoàn Chuẩn được công chúng nhắc đến nhiều, đó là mối tình của ông với các “bóng hồng” – những người đã tạo nên nguồn cảm hứng giúp ông viết nên nhiều bản tình ca.
Sau khi lập gia đình, Đoàn Chuẩn vẫn tiếp tục sống cuộc đời phiêu lãng với âm nhạc và những cuộc tình với những bóng hồng thể hiện trong lời ca nét nhạc của ông.
Thế nhưng người vợ của ông vẫn bao dung, một lòng chung thủy, chịu đựng tính bay bướm nghệ sĩ của chồng, bà đứng đằng sau để lo toan cho cuộc sống gia đình. Có lẽ vì bà biết rằng khi đã chấp nhận lấy một người chồng nghệ sĩ như Đoàn Chuẩn, một người phong lưu, đa tình, thì những cuộc tình ngoài luồng của ông là không thể tránh khỏi. Dù sao thì sau những cuộc tình thoáng qua, ông vẫn quay về với vợ con, và họ vẫn sống với nhau đến trọn đời. Và có thể bà cũng biết rõ, nhờ những cuộc phiêu lưu tình ái đó của Đoàn Chuẩn mà ông có chất xúc tác, cảm hứng để viết nên những tình khúc bất hủ.
Bà Nguyễn Thị Xuyên từng chia sẻ: “Ông lãng mạn đa tình lắm. Có vậy ông mới viết được bài hát hay thế. Ông muốn ngang thì ngang, muốn dọc thì dọc, tôi chiều ông hết. Bổn phận của tôi là chăm sóc chồng, nuôi con, lúc nào cũng an phận chịu đựng. Ông không biết đến sinh kế gia đình, con cái… Đời ông phóng khoáng. Nghe nhạc ông lúc nào tôi cũng ngạc nhiên – sao ông tài thế? Mỗi bài hát là kỷ niệm một mối tình đi qua đời ông. Ông chỉ viết một bài cho tôi, hồi đó ông chưa lơ mơ ai cả. Ông viết Đường Về Việt Bắc, nhớ nhà, nhớ vợ và màu tím áo lụa Hà Đông tôi mặc khi còn đi học. Đôi khi tôi cũng buồn vì ông tặng tình ca cho người phụ nữ khác. Nhưng lấy chồng nghệ sĩ, số mình chịu vậy”. (Theo báo Phụ Nữ – Xuân 2001).
Do luôn chảy trong mình dòng máu nghệ sĩ nên Đoàn Chuẩn không muốn nối nghiệp kinh doanh của cha mẹ để lại. Ông chỉ muốn sống đời với nghệ thuật, với cây đàn Hạ Uy Cầm, Đoàn Chuẩn sống phóng khoáng, lang bạt và đầy tính nghệ sĩ.
Sau năm 1956, hãng nước mắm Vạn Vân và tài sản gia đình ông bị nhà nước tịch thu. Đoàn Chuẩn phải đi dạy nhạc để sống qua ngày nơi căn nhà nhỏ ở đường Cao Bá Quát.
Cuối thập niên 1950, nhạc của Đoàn Chuẩn không được phổ biến ở miền Bắc nữa, thay vào đó những ca khúc của ông lại rất phổ biến và được yêu thích trong dòng người di cư vào miền Nam.
Đầu năm 2000, Đoàn Chuẩn bị tai biến mạch máu não và rơi vào hôn mê. Sau đó, ông tỉnh lại nhưng mất tiếng nói, chỉ có thể bút đàm cho đến lúc qua đời. Ngày 15 tháng 11 năm 2001 nhạc sĩ Đoàn Chuẩn thanh thản về cõi vĩnh hằng, để lại niềm xót xa đầy tiếc thương cho gia đình và những người mến mộ người nhạc sĩ tài hoa.
Ngôi nhà của gia đình Đoàn Chuẩn nay vẫn ở số 9, phố Cao Bá Quát. Từ ngày hai ông bà mất, con cháu ông đã dùng căn phòng xưa ông vẫn thường ở để vừa làm nơi thờ phụng, vừa để làm phòng lưu niệm với rất nhiều hình ảnh, hiện vật gắn bó với nhạc sĩ suốt 77 năm cuộc đời.