Nhà Hát Lớn Hà Nội là công trình có kiến trúc hoàn hảo, quy mô bậc nhất, góp phận định hình diện mạo và kiến trúc của thủ đô Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20. Tại đây vẫn lưu giữ nhiều bí ẩn chưa có lời giải như: Tác giả đích thực tạo nên công trình này, nhà hát không hề có tiếng khi thử âm lần đầu tiên… Bài viết sau sẽ chia sẻ những bí ẩn đó cùng quý độc giả:
Trên website của Nhà Hát Lớn Hà nội cung cấp những tư liệu chính thức cho biết vị trí nhà hát vốn nằm trên một vùng đầm lầy của hai làng Thạch Tần và Tây Luông thuộc Tổng Phúc Lân, huyện Thọ Xương. Năm 1899, một cuộc họp diễn ra bao gồm hội đồng thành phố dưới quyền chủ tọa của Richard – Công sứ Pháp tại Hà Nội đã đề nghị lên Toàn Quyền Fourer cho xây dựng nhà hát. Hai đồ án thiết kế dự án được xây dựng bởi hai kiến trúc sư người Pháp có tên là Harlay và Broyer. Bản thiết kế phải sửa đổi nhiều lần so với bản gốc sau khi nhận được nhiều sự góp ý từ các kiến trúc sư danh tiếng.
Ngày 07/06/1901, công trình nhà hát chính thức được khởi công dưới sự giám sát kỹ thuật của thanh tra đô thị, kiến trúc sư Harlay một trong hai tác giả thiết kế. Người phụ trách thi công là Travary và Savelon.
Vì công trình nằm trên đầm lầy khiến việc san lấp mặt bằng rất vất vả, hằng ngày có hơn 300 công nhân liên tục làm việc, 35.000 cọc tre được đóng với khối bê tông nền được đổ dày 90cm. Công trình này sử dụng hơn 12.000m3 vật liệu và gần 600 tấn gang thép chiếm diện tích 2.600m2 với chiều dài 87m điểm cao nhất so với mặt đường là 34m. Mặt trước công trình được xây dựng rất bề thế với những bậc thềm chạy dài trước nhà hát để đón thẳng xe của các quan chức thuộc địa đến xem chương trình biểu diễn.
Nhà thiết kế công trình đã tìm tỏi, học hỏi tham khảo kiến trúc cổ Hy Lạp Coranhto kết hợp với kiểu lâu đài Tuylơry và Nhà hát Opéra Paris để tạo ra một khối công trình với kiến trúc riêng biệt.
Trước đây, bên trong nhà hát có sân khấu rộng và một phòng khán giả chính với diện tích 24x24m chứa được 870 chỗ ngồi. Chỗ ngồi là các ghế được bọc da trên hạng ghế phổ thống, riêng các ghế vip được bọc nhung sang trọng. Tầng giữa cũng được trang bị nhiều phòng nhỏ dành cho khán giả có vé riêng. Cầu thang giữa lên tầng hai là một sảnh chính rộng hai bên là cầu thang phụ và hành lang. Phía sau nhà hát là một phòng quản trị, 18 buồng cho diễn viên hóa trnag , 2 phòng tập hát, 1 thư viện và phòng họp.
Hà Nội 1920 – 1929. Phòng khánh tiết hay còn gọi là phòng Gương của Nhà hát lớn Hà Nội. Ảnh Manh Hai Flicker
Các chương trình biểu diễn được phục vụ chủ yếu cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có với các loại hình nghệ thuật cổ điển như Opera, nhạc thính phòng và kịch nói. Lịch biểu diễn mỗi tuần 4 lần vào thứ ba, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật.
Kinh phí xây dựng nhà hát được duyệt là hai triệu franc Pháp – một khoản tiền rất rất lớn vào thời kỳ đó. Báo chí và nhiều quan chức chính phủ Pháp đặt ra hàng loạt câu hỏi về kinh phí xây dựng dự án:
Tại sao lại phải bỏ ra một khoản tiền lớn như vậy để xây dựng một nhà hát hát bề thế trong khi dân số của thành phố thuộc địa này ít hơn rất nhiều so với Paris?.
Có sự cấu kết ngầm giữa quan chức có quyền duyệt chi và nhà thầu để đội kinh phí lên?
Xây dựng Nhà Hát Lớn bề thế và nguy nga giữa thành phố để phục vụ cho tương lai của Hà Nội?
Đó vẫn là một câu hỏi mà đến bây giờ vẫn chưa có lời giải thuyết phục.
Ai là “cha đẻ” của Nhà hát Lớn ?
Nhiều người cho rằng: Nhà Hát Lớn Hà Nội có nhiều nét tương đồng với Nhà hát Opéra Garnier của Pháp xây dựng vào nửa cuối thế kỷ 18. Tuy nhiên kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính không đồng tình với quan điểm này, ông chia sẻ: “Tôi đã từng nhiều lần đến thăm Nhà hát đó ở Paris và thấy rằng Nhà hát Lớn Hà Nội không phải là phiên bản của Nhà hát Garnier. Bởi vì Nhà hát Opéra Garnier rất đồ sộ, nguy nga và rất cầu kỳ với 2.600 chỗ, trong khi Nhà hát Lớn Hà Nội chưa đầy 1.000 chỗ. Nếu có giống nhau thì có chăng là về chức năng, cấu trúc, không gian mặt bằng mà thôi.
Còn về mặt kiến trúc, Nhà hát Lớn Hà Nội là một sự phát triển đặc trưng của lối kiến trúc Pháp ở một nước thuộc địa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong đó có sự biểu hiện, tiếp nối của kiến trúc tân cổ điển và kiến trúc tân Ba rốc. Thậm chí có những nhân tố bản địa hóa rất đặc biệt, độc đáo và có giá trị thẩm mỹ tự thân chứ không bắt chước một cái nào của Opéra Garnier cả. Nếu đặt Nhà hát Lớn Hà Nội bên cạnh các nhà hát tiêu biểu trên thế giới thì nó rất độc lập, không giống nhà hát nào về mặt kiến trúc”.
Cũng theo một vài tài liệu mà người biên soạn bài viết này có được thì GS.KTS Hoàng Đạo Kính, người chủ trì công việc duy tu Nhà Hát Lớn vào những năm 90 của thế kỷ 20 cũng từng băn khăn tác giả của công tình này là ai? Nhiều kiến trúc sư đã tìm trong không ít hồ sơ ở Pháp và Việt Nam nhưng đến nay vẫn chưa biết được ai là cha đẻ của công trình này.
Vì vậy, cũng dễ hiểu khi không chỉ các kiến trúc sư mà ngay cả chúng ta đều có mong muốn được tìm hiểu, làm rõ ai là tác giả thực sự của một công trình độc đáo ở xứ Đông Dương thuộc địa xa vời với nước Pháp mà lại chín muồi đến thế…(còn nữa)
KTS Hồ Thiệu Trị, người sáng lập kiêm Tổng Giám đốc HTT Group, đồng thời cũng là người tham gia vào việc trùng tu Nhà hát Lớn Hà Nội trong giai đoạn 1995-1997 cho biết: “Năm 1994, lần đầu tiên từ Pháp về Việt Nam, tôi đến thăm nhà hát. Nhìn thoáng qua, tôi thấy công trình giống như những nhà hát ở Pháp và Châu Âu, nhưng khi quan sát kỹ, lại thấy phảng phất đường nét, chi tiết rất Việt Nam.
Nhà hát Lớn được thiết kế rất đúng với tinh thần của kiến trúc thuộc địa, ở thời điểm đó, tại Việt Nam chưa có mô hình nhà hát lớn nào làm hình mẫu. Sự tồn tại của Nhà hát Lớn Hà Nội đến giờ được coi là duy nhất ở Đông Nam Á”.