Cố nhạc sĩ Đỗ Nhuận -Người Nhạc sĩ Tài Hoa với giai điệu “Tí tí tí tí te te te te tò tò tò tọ tọ tọ tọ tì tì tì tì te te”

Đăng ngày 21/07/2024

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận sinh năm 1922 ở huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương trong một gia đình nông dân. Thuở thiếu thời ông rời Hải Dương theo cha ra thành phố cảng Hải Phòng để sinh sống, lúc bấy giờ cha ông làm “ lính kèn tây” trong đội quân nhạc. Hải Phòng vào những năm 1930 là một trong những cái nôi của nền tân nhạc nước nhà, cũng chính vì thế mà Đỗ Nhuận được tiếp xúc và hình thành đam mê để theo đuổi con đường nghệ thuật này.Nhạc sĩ Đỗ Nhuận - Người nâng tầm nhạc Việt

Năm 14 tuổi Đỗ Nhuận đã tự mày mò, học hỏi và đã biết chơi các nhạc cụ dân tộc như: đàn bầu, đàn tứ, sáo trúc,tiêu, đàn nguyệt. Sau đó ông còn học thêm các nhạc cụ khác như đàn guitar, banjo, kèn harmonica . Với sở thích và đam mê thích tìm tòi học hỏi của mình không dừng lại ở đó ông còn học thêm violon, baian cùng với các nhạc công người Nga lưu vong ở Hà Nội. Trong hồi ký của nhạc sĩ Đỗ Nhuận có viết về “hành trình” đến với âm nhạc của ông là nhờ vào những điều bình dị nhất mà hàng ngày ông được tiếp xúc, được nghe thấy và cảm nhận từ đó hình thành nên phong cách sáng tác của mình: “Những âm thanh mà tôi được tiếp cận là tiếng còi máy tơ, máy xi măng, còi tàu khi cập bến và rời cảng, những tiếng kèn đồng, tiếng trống ngũ liên mỗi khi làng có hội và tiếng hát xẩm của những người hành khất. Chính những âm thanh đời thường ấy đã thấm sâu vào tâm hồn, tạo cho tôi phong cách trong sáng tác”…

Vào năm 17 tuổi Đỗ Nhuận cho ra đời ca khúc đầu tiên mà ông sáng tác mang tên “Trưng Vương” (1939) nhân dịp kỉ niệm Hai Bà Trưng ở tỉnh Hải Dương. Cũng ngay trong năm đó ca khúc này được xuất bản, phổ biến rộng rãi và được nhiều người biết đến vì sức lan tỏa của nó.  Năm 1940,1941 lấy cảm hứng từ lịch sử ông soạn thảo nhiều ca khúc như: “Chim than”, “Lời cha già”, “Đường lên ải Bắc”… là cơ sở viết nên vở ca cảnh Nguyễn Trãi – Phi Khanh gồm 3 ca khúc “Chim than”, “Lời cha già”, “Đường lên ải Bắc”.Nhạc sĩ Đỗ Nhuận - âm thanh cuộc đời - Tuổi Trẻ Online

Với tinh thần yêu nước, ông tham gia vào việc in và rải truyền đơn tuyên truyền cho cách mạng, vì thế ông đã bị Pháp bắt giam vào lao ở Hải Dương và tuyên án 3 năm tù, sau đó đày lên Sơn La vào năm 1943. Tuy nhiên sự cầm tù đó không ngăn được dòng máu yêu nước đang chảy trong ông, thời gian này ông cho ra đời hàng loạt ca khúc cách mạng như: “Chiều tù”, “Côn Đảo”, “Hận Sơn La”, “Tiếng gọi tù nhân”, “Viếng mồ tử sĩ”, “Du kích ca”… Hiện nay ở nhà tù Sơn La vẫn còn lưu giữ một số bút tích của ông.

Sau khi ra tù, ông tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác. Ông tìm cách liên lạc với các nhạc sĩ đi theo cách mạng như Văn Cao, Nguyễn Đình Thi…Ngoài ra ông cũng thường xuyên xuống đường hướng dẫn mọi người cùng tập hát những bài ca cách mạng bên cạnh công việc sửa bản in cho báo Cứu quốc. Trong thời gian này Đỗ Nhuận sáng tác khá nhiều ca khúc và được biết đến nhiều thời bấy giờ như: “Nhớ chiến khu”, “Đường trường vô Nam”, “Tiếng súng Nam Bộ”, “Bé yêu Bác Hồ”, “Ngày Quốc hội”… Trong thời gian lửa đạn mịt mù, ông có những sáng tác về du kích cùng nhiều nhạc phẩm khác: “Du kích ca”, “Đoàn lữ nhạc”, “Hành quân xa”(1953), “Trên đồi Him Lam”(1954), “Chiến thắng Điện Biên”(1954), “Tình Việt Bắc”, “Lửa rừng”, “Tiếng hát đầu quân”, “Áo mùa đông”, “Đèo bông lau”…Bài hát “ Du kích ca” cùng với hai nhạc phẩm “ Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao và “Diệt phát xít” của nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi là những ca khúc được hát nhiều nhất trong những ngày khởi nghĩa giành chính quyền.

Sau khi hòa bình lập lại năm 1954 ,Đỗ Nhuận tiếp tục sáng tác và có mặt trong lĩnh vực khí nhạc Việt Nam qua các tác phẩm như: khúc biến tấu trên chủ đề dân ca cho flute và piano Mùa xuân trên rừng (1963), tứ tấu đàn dây Tây Nguyên (1964), ba biến tấu cho violon và piano (1964), tổ khúc giao hưởng Điện Biện (1965), giao hưởng thơ Đimit’rov (1981)… Ngoài ra, còn phải kể đến kịch múa rối Giấc mơ bé Rồng (1968), kịch múa Mở biển (1973) và nhạc nền trong các phim tài liệu và phim truyện: Chiến thắng Điện Biên (1954), Nguyễn Vǎn Trỗi (1965), Mở đường Trường Sơn (1972), Lǎng Bác Hồ (1975).

Năm 1957, Hội Nhạc sĩ Việt Nam thành lập, Đỗ Nhuận – một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng vinh dự được bầu làm Tổng Thư ký đầu tiên của hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II (kéo dài cho đến năm 1983).

Đỗ Nhuận cũng là nhạc sĩ duy nhất trong thế hệ đầu của tân nhạc được đi tu nghiệp tại đại học tại Nhạc viện Tchaikovsky ( Liên Xô cũ) từ năm 1960 đến 1962. Nhạc sĩ Trọng Bằng từng viết: “Trong khoảng thời gian hai năm thực tập tại Nhạc viện Tchaikovsky ở Mátxcơva, Đỗ Nhuận đã làm việc hết sức mình để vươn lên cho ngang tầm âm nhạc chuyên nghiệp thế giới. Khó có thể tưởng tượng được một người tù chính trị những năm đầu 1940 phải xiềng chân đi bộ, hát mấy bài ca Cách mạng ngắn gọn, giờ ngồi bên piano đánh bản sonat số 21 có tên gọi là Rạng đông của Beethoven một cách quy củ đến vậy! Người ấy, ngày xưa ở trong tù, có lúc phải tìm gáo dừa để làm đàn nhị, tìm từng chiếc lá để làm đàn môi… nhằm có tiết mục ca hát động viên đồng chí tiếp tục con đường Cách mạng” . Điều đó cho thấy Đỗ Nhuận là một con người hết sức tài hoa và rất lạc quan kể cả trong thời kì gian khổ nhất. Sự tài hoa của ông cũng được kể lại thông qua câu chuyện của nhà văn Bùi Đình Thi khi về công tác tại Phòng văn nghệ Đài Tiếng Nói Việt Nam đã gặp và quen biết với nhạc sĩ Đỗ Nhuận, câu chuyện như sau: “Nhạc sĩ Đỗ Nhuận kể cho tôi và lũ nhân viên sàn sàn tuổi tôi bấy giờ rằng đã có thời anh ở trong phường bát âm để thổi kèn cho những đám ma. Anh bảo: “Tao không nói dối đâu. Nghe đây! Lũ nhóc con”, rồi anh lôi trong ba-lô ra một chiếc kèm đám ma (…). Anh nhìn chúng tôi một lượt, rồi nói to với ông chủ nhà vui tính: “Bác Thừng ơi, tôi thổi cái kèn đám ma này để làm thí dụ về âm nhạc, bộ hơi cho cánh trẻ này họ nghe nhé”.Tiểu sử nhạc sĩ ĐỖ NHUẬN || Một cuộc đời âm nhạc đặc biệt

Ông chủ nhà cười vang, đáp: “Vâng, vâng, anh cứ tự nhiên ạ”. Đỗ Nhuận nói với chúng tôi: “Phải cứ xin phép thế, kẻo rồi lúc thổi lên, người nhà hàng xóm lại tưởng nhà này có ma thì khốn”.

Tôi nghe anh nói và nghĩ ngay: “Anh quả là người từng trải…”. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận nói: “Nào, bắt đầu nhé” rồi anh ngậm cặp môi vào lưỡi kèn bóp và hai má anh hơi phồng lên, hai mắt anh nháy nháy cực là tinh nghịch: Tí tí tí tí te te te te tò tò tò tọ tọ tọ tọ tì tì tì tì te te. Ôi chao, nghe cực sướng hai cái lỗ nhĩ. Chúng tôi vỗ tay ran và cười nghiêng ngả.

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận nhả lưỡi kèn bóp, thong thả nói: “Nghĩa của câu nhạc kèn bóp này là – nói ra tiếng nói nhé: ối ối ối ối, cô dì chú bác ơi, ông ấy nhà tôi bỏ bỏ bỏ tôi tôi mà đi rồi rồi rồi”. Chúng tôi gật đầu lia lịa vì thấy sự diễn ý của nhạc sĩ về điệu kèn bóp quả là tài tình.

Có người nào đó bất chợt hỏi: “Anh ơi, thế có thổi được bài Giải phóng Điện Biên của anh bằng kèn bóp được không?”. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận liền ngậm ngay lưỡi kèn, nói: “Nghe nhé… Tò tí tò te tò tò te tí te te tò tọ tê tỉ ti”.

Tất cả chúng tôi nhảy cẫng lên mà hoan hô và vỗ đến rát bỏng cả hai bàn tay… Nhạc sĩ Đỗ Nhuận nói to: “Các chú là hay coi thường nhạc cụ dân gian lắm. Cái gì cũng chỉ thích nhạc Tây, violon, piano, vân vân. Còn nhạc dân gian ta thì coi thường. Ấy là hỏng, là không được, phải biết yêu những gì dân tộc mình có”.

Chúng tôi vỗ tay ran tưởng thưởng điều anh nói và từ buổi tối hôm ấy, với những buổi sinh hoạt văn hóa, âm nhạc sau đó, chúng tôi đã dần dần sáng mắt ra về những kiến thức âm nhạc mà nhạc sĩ Đỗ Nhuận truyền lại cho chúng tôi”.

Không những thế Đỗ Nhuận còn là một trong những người đặt nền móng cho thể loại nhạc kịch theo truyền thống của opera phương Tây. Ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết opera và nổi tiếng với vở Cô Sao (1965) và Người tạc tượng (1971). Ngoài sáng tác ông còn viết báo và tham gia phê bình, đáng chú ý nhất trong số đó là bài báo tấn công nặng nề nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm năm 1958.

Cho đến tận ngày này những ca khúc của ông vẫn còn được yêu thích và được mọi người trình bày thường xuyên như   “Việt Nam quê hương tôi”, “Tôi thích thể thao” (một bài hát vui, bắt đầu bằng toàn chữ T), “Em là thợ quét vôi”, “Đường bốn mùa xuân”…

Nhạc sĩ Đỗ Nhuận qua đời ngày 18 tháng 5 năm 1991 tại Hà Nội.