Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và mối tình dang dở với bóng hồng Trần Vân Anh

Đăng ngày 21/07/2024

Cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm 1990 thu hút tới hơn 200 thí sinh khắp cả nước tham dự và vòng chung kết được tổ chức tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt-Xô (Hà Nội). Lý giải hiện tượng các Á hậu thường được cho là “lấn át” vẻ đẹp của Hoa hậu, các chuyên gia có thâm niên “cầm cân nảy mực” cho rằng, về nhan sắc, Hoa hậu và Á hậu thường “một chín, một mười”, thậm chí Hoa hậu còn có thể bị “lép vế” nhưng một gương mặt được chọn để đăng quang sẽ hội tụ những tiêu chí một cách hài hòa nhất.

Người đẹp là Á hậu Việt Nam 1990, 'bóng hồng' một thời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn giờ ra sao?

Năm 1990 cũng chứng kiến sự lên ngôi của Hoa hậu Diệu Hoa, dù có chiều cao lép vế so với 2 Á hậu nhưng chị vẫn được BGK đánh giá là người đẹp có phù hợp với tiêu chuẩn của vương miện nhất. Trong cuộc thi này, khán giả còn ấn tượng với 2 mỹ nhân khác là: Trần Vân Anh và Trần Thu Hằng. Gây tiếc nuối nhất năm ấy là Á hậu 1 Trần Vân Anh. Thời điểm năm 1990, chị gây ấn tượng bởi sắc vóc chuẩn.

Trần Vân Anh, đến từ TP HCM, từng gây “choáng” với chiều cao 1m70, số đo hình thể đáng mơ ước: 90 – 60 – 90 được đánh giá đạt chuẩn quốc tế. Tại thời điểm đó, cô là ứng viên số 1 cho chiếc vương miện danh giá. Nhưng với phần trả lời ứng xử rất trôi chảy, thông minh, được cả hội trường vỗ tay không ngớt cô gái Hà Nội Nguyễn Diệu Hoa với chiều cao 1m58 lên ngôi Hoa hậu toàn quốc báo Tiền Phong 1990.

Ngoài danh hiệu Á hậu 1 cuộc thi năm đó, Trần Vân Anh còn được biết đến như một gương mặt người mẫu sáng giá thuộc top đầu thời bấy giờ. Theo lời các thành viên trong Ban tổ chức cuộc thi kể lại, ngay từ cái nhìn đầu tiên nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã “mê mẩn” trước vẻ đẹp lai Tây của Vân Anh kèm theo lời trầm trồ: “Đẹp quá!”. Từ khi đoạt danh hiệu Á hậu đến nay, gần như Á hậu Trần Vân Anh đã “hết duyên” với showbiz cũng như các sự kiện văn hóa, giải trí.

Về mối tình bí ẩn của Á hậu Trần Vân Anh với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chị bén duyên tình cảm với vị nhạc sĩ đào hoa, lớn hơn mình đến 31 tuổi. Một thời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn yêu Trần Vân Anh đắm đuối đến mức đã lên kế hoạch để chuẩn bị hôn lễ. Tuy nhiên cả hai lại không đến được bến bờ hạnh phúc với lý do được giấu kín. Có nhiều tài liệu tiết lộ rằng, sau khi chia tay, Trịnh Công Sơn phải mất rất nhiều năm mới nguôi ngoai nỗi nhớ Trần Vân Anh. Về phía Á hậu Việt Nam 1990, chị chọn cách “ở ẩn” sau cuộc tình dang dở.

Chuyện tình và những bóng hồng trong đời cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Hiện tại, các thí sinh thi Hoa hậu đều mong lọt vào top cao để ghi dấu ấn trong mắt khán giả, đồng thời có danh hiệu để làm bệ phóng trong công việc lẫn cuộc sống. Tuy nhiên, ở Á hậu 1 Trần Vân Anh, cô lại không có bất cứ hoạt động nào trong làng giải trí. Sự biến mất của chị đã để lại khá nhiều tiếc nuối cho khán giả lúc bấy giờ.

Hơn 30 năm đã đi qua, câu chuyện về Á hậu Trần Vân Anh mãi trở thành một ẩn số với những khán giả yêu thích cuộc thi Hoa hậu Việt Nam. Tuy nhiên, khác với Hoa hậu Diệu Hoa, tất cả các thông tin về Trần Vân Anh đều cực ít ỏi. Nhiều khán giả mong muốn một lúc nào đó, BTC cuộc thi sẽ lật lại những tên tuổi ấy để mọi người cùng nhớ về một thời ký ức đẹp của cuộc thi nhan sắc được khai sinh vào những năm đầu thập niên 90.

Chắc hẳn quý độc giả không còn xa lạ gì với những ca khúc nổi tiếng như: Để gió cuốn đi, Cát bụi, Diễm xưa,Hạ trắng, Tình nhớ, Một cõi đi về, Biển nhớ, Em ở nông trường em ra biên giới, Đêm thấy ta là thác đổ,… của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của âm nhạc đại chúng, tân nhạc Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ, ông đã để lại cho đời hơn 600 bài hát. Hơn thế nữa, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên.Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không những là người để lại cho đời lời ca tiếng hát sống mãi với thời gian, mà chính bản thân ông cũng đã trở thành một biểu tượng văn hóa đại chúng. Hàng năm, nhiều người yêu mến âm nhạc của ông vẫn tổ chức những đêm nhạc để tưởng nhớ cố nhạc sĩ. Mặc dù, có rất nhiều các nghệ sĩ thể hiện nhạc Trịnh như Thái Thanh, Ngọc Lan, Tuấn Ngọc, Quang Dũng, Lân Nhã, Lệ Quyên, Trần Thu Hà, v.v… nhưng thành công nhất vẫn là hai “bóng hồng” Khánh Ly và thế hệ sau là Hồng Nhung.

Trịnh Công Sơn và Hồng Nhung: người thân khẳng định là tình yêu, em gái NS lại một mực phủ nhận
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939. Quê ông thuộc làng Minh Hương, xã Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế.

Thuở nhỏ Trịnh Công Sơn theo học trường Lycée Français và Providence ở Huế, sau đó ông vào Sài Gòn theo học triết học tại trường Tây Lycée Jean Jacques Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây.

Năm 1957, khi 18 tuổi một biến cố xảy ra, ông bị một tai nạn khi đang tập judo với người em trai của mình khiến ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Thời gian dưỡng bệnh, ông đọc nhiều sách về triết học, văn học và tìm hiểu về dân ca. Ông từng chia sẻ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy“.

Năm 17 tuổi, Trịnh Công Sơn sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều. Nhưng tác phẩm được công bố đầu tiên của ông là ca khúc Ướt mi, do nhà xuất bản An Phú in năm 1959 và qua giọng ca của nữ ca sĩ Thanh Thúy, từ đó tên tuổi của ông được nhiều người biết đến.

Năm 1961, ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp Trịnh Công Sơn dạy tại một trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.

Từ cuối năm 1966, tên tuổi của Trịnh Công Sơn được nhiều người biết đến hơn, từ khi ông cùng ca sĩ Khánh Ly hát tại Quán Văn, một quán cà phê đơn sơ dựng trên bãi đất cỏ sau Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Lúc này, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là ca sĩ Khánh Ly. Ông từng chia sẻ: “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly“. Ca sĩ Khánh Ly sau này cũng hồi tưởng về giai đoạn những năm thập niên 1960 đó và tâm sự: “Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn”

Trinh Công Sơn là một trong những trí thức đấu tranh tích cực cho phong trào hòa bình tại miền Nam. Năm 1968, ông đã gặp bộ đội Cụ Hồ trong 26 ngày đêm Cách mạng giải phóng Huế. Năm 1970, ông tham gia phong trào Tự quyết với Ngô Kha, Trần Viết Ngạc, Lê Khắc Cầm, Chu Sơn và Thái Ngọc San.

Cũng trong năm 1970, một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản như Diễm Xưa, Ca dao Mẹ, Ngủ đi con. Riêng ca khúc Ngủ đi con đã được phát hành trên hai triệu đĩa than.

Trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trịnh Công Sơn lên Đài phát thanh Sài Gòn hát bài “Nối vòng tay lớn”. Ông cũng chính là người trưa ngày 30/4 đã đứng lên phát biểu trực tiếp trên đài phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh. Trong bài phát biểu của mình, ông đã kêu gọi người dân miền Nam ủng hộ Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam:

“Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta… Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này… Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó… Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước… Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này…”

Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Những năm đầu thập niên 1980, ông bắt đầu sáng tác lại, ban đầu một số tác phẩm của ông gởi qua cho Khánh Ly và chỉ phát hành tại hải ngoại. Lúc bắt đầu được phép lưu hành nhạc trong nước, ông viết một số bài có nội dung ca ngợi những chủ trương của chế độ mới như: Thành phố mùa xuân, Ngọn lửa vĩnh cửu Moskva, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ… Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục sáng tác nhiều bản tình ca có giá trị.

Ngoài vai trò là một nhạc sĩ kiêm ca sĩ, Trịnh Công Sơn còn là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư. Năm 1971 ông tham gia đóng phim và thủ vai chính trong phim Đất khổ của cố đạo diễn Hà Thúc Cần. Sau khi phim được hoàn tất năm 1974 thì chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần với thời lượng 102 phút, rồi bị cấm không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam. “Đất khổ” là bộ phim nói về một câu chuyện của tình yêu, tình ruột thịt, lòng yêu nước, sự gắn bó với văn hóa và tiếng nói của giống nòi; cũng như về một mối tình trong trắng nhưng vô cùng ngang trái vì chiến tranh. Phim còn có sự góp mặt của kỳ nữ Kim Cương, nhà văn Sơn Nam, diễn viên Bạch Lý và NSƯT Thành Lộc (khi đó mới 8 tuổi).

Sau năm 1975, bộ phim này lại được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996. Năm 1997, ông cùng nghệ sĩ Thanh Bạch và ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh thực hiện album băng hình VHS của mình mang tựa đề Ru tình được Hãng phim trẻ sản xuất năm 1996. Sau đó năm 2004, Hãng phim Phương Nam sản xuất lại dưới dạng VCD & DVD . Năm 1998, Hãng phim Phương Nam cũng thực hiện cho ông và nhạc sĩ Văn Cao trong chương trình “Văn Cao & Trịnh Công Sơn”  dưới định dạng băng VHS, sau đó là VCD & DVD. Từ đó về sau, ông cùng bà Trịnh Vĩnh Trinh góp mặt trong những CD nhạc do ông sáng tác và được Hãng phim Phương Nam sản xuất trong giai đoạn này như: Ru tình, Tình yêu tìm thấy, Vì tôi cần thấy em yêu đời, Cho đời chút ơn,…

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, tuy nhiên cho tới tháng 4 năm 2017 chỉ có 77 bài được Cục Nghệ thuật Biểu diễn cấp phép, những tác phẩm có ca từ độc đáo, mang hơi hướng suy niệm. Theo Trung tâm Bảo vệ tác quyền âm nhạc Việt Nam Chi nhánh phía Nam, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn là tác giả được trả tác quyền nhiều nhất với hơn 820 triệu đồng trong năm 2015. Ông luôn đứng trong top 5 nhạc sĩ có tiền trả tác quyền cao nhất.

Bật mí" về sáng tác đầu tiên và cuối cùng của Trịnh Công Sơn | Báo Pháp luật Việt Nam điện tử

Đối với những tác phẩm của Trịnh Công Sơn, có một đánh giá cho rằng phần nhạc của Trịnh Công Sơn quá đơn điệu về đề tài, chủ yếu tập trung vào tâm trạng mơ hồ và mộng tưởng. Tuy nhiên, đánh giá này lại trùng khớp với lời lý giải của ông về sự sáng tác của mình: “Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo…”. Hai chủ đề lớn nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là tình yêu và thân phận con người.

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn đa số là những bản nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn bã, cô đơn như: Sương đêm, Ướt mi, Diễm xưa, Biển nhớ, Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ, Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa hồng… Khả năng viết nhạc tình của ông tưởng chừng không biết mai một theo năm tháng. Những bài hát về nhạc tình của ông thường mang giai điệu nhẹ nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, nhiều chiêm nghiệm nhờ những biện pháp ẩn dụ, hoán dụ… đôi khi pha lẫn hơi hướng siêu thực, trừu tượng tuy nhiên giai điệu gần gũi nên nhạc của ông dễ dàng đi vào lòng công chúng.

Nhạc về thân phận con người của Trịnh Công Sơn thấm đượm màu sắc hiện sinh, buồn bã của các tác giả văn học phương Tây thập niên 60 như Jean Paul Sartre, Albert Camus,… Tiêu biểu là các ca khúc: “Cát bụi”, “Đêm thấy ta là thác đổ”, “Chiếc lá thu phai”, “Một cõi đi về”, “Phôi pha”,…. Bên cạnh đó, có những bài tuy là nhạc buồn nhưng có gợi nên tư tưởng thiền như: “Một cõi đi về”, “Giọt nước cành sen”. Ông từng tâm sự, khi còn trẻ ông đã luôn ám ảnh bởi cái chết nên âm nhạc của ông mang trong đó một sự mất mát của những số phận con người.Tên tuổi của Trịnh Công Sơn còn gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, kêu gọi hòa bình mà người ta thường gọi là “nhạc phản chiến”, hay còn gọi là “Ca khúc da vàng” theo tên các tập nhạc của ông phát hành những năm cuối thập niên 1960. Nhạc phản chiến của ông phần lớn viết bằng điệu Blues, cộng với lời ca đậm chất hiện thực, rất đơn sơ, trần trụi đã trở thành những bài hát gây xúc động mạnh mẽ. Những bản nhạc này được ông cùng Khánh Ly trình diễn ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người ủng hộ nhất là giới. Đây cũng là thể loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra khắp thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng (giải thưởng âm nhạc) tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp. Mãi cho đến nay, rất nhiều bài hát về thể loại nhạc này của ông chưa được phép lưu hành chính thức tại Việt Nam. Mặc dù trước đó đã từng rất phổ biến và được Khánh Ly phát hành băng nhạc tại miền Nam như những bài: Đi tìm quê hương, Chính chúng ta phải nói hòa bình, Gia tài của mẹ, Cho một người vừa nằm xuống, Chưa mất niềm tin, Chờ nhìn quê hương sáng chói, Ta đi dựng cờ,…

Mối tình dang dở, đầy luyến tiếc của Trịnh Công Sơn và cô gái người Nhật

Ngoài những thể loại nhạc trên, Trịnh Công Sơn còn để lại nhiều tác phẩm viết về quê hương như “Chiều trên quê hương tôi”,“Huế – Sài Gòn – Hà Nội”, “Việt Nam ơi hãy vùng lên” (1970), “Nối vòng tay lớn”, “Chưa mất niềm tin” (1972)…

Từ đầu thập niên 1980, khi được phép lưu hành nhạc trong nước, ông viết một số bài nhạc cách mạng như “Em ở nông trường em ra biên giới“, “Huyền thoại Mẹ“, “Ánh sáng Mạc Tư Khoa“, “Ra chợ ngày thống nhất”,…

Sau này, Trịnh Công Sơn còn viết nhạc cho thiếu nhi (trong tập nhạc “Cho Con”, xuất bản năm 1991), nhiều bài rất nổi tiếng như: “Em là hoa hồng nhỏ“, “Mẹ đi vắng“, “Em đến cùng mùa xuân“, “Tiếng ve gọi hè“, “Tuổi đời mênh mông“, “Mùa hè đến“, “Tết suối hồng“, “Khăn quàng thắp sáng bình minh“, “Như hòn bi xanh“, “Đời sống không già vì có chúng em“.

Bên cạnh thành công trên con đường âm nhạc, Trịnh Công Sơn cũng khá có tiếng với nhiều tác phẩm hội họa, bút tích. Những tác phẩm hội họa của ông đã được triển lãm tại Nhà Hữu Nghị Tiệp Khắc – Việt Nam, từ 14/01/1989 đến 24/01/1989 cùng với 2 họa sĩ Đinh Cường và Đỗ Quang Em, triển lãm tại nhà khách Ritz, và Trang viên Con Nai Vàng, Thủ Đức, từ 15/12/1990 đến 20/01/1991 cùng với 2 họa sĩ Trịnh Cung và Đỗ Quang Em. Một số tác phẩm trong đó, hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mất vào lúc 12h45, ngày 1/4/2001 tại TP.HCM sau một thời gian dài chiến đấu với các bệnh về gan, thận và tiểu đường. Thời điểm đó, ông được cho là vẫn cặm cụi sáng tác ngay khi nằm trên giường bệnh. Hàng ngàn người đã đến viếng ở lễ tang của ông, và có thể nói chưa có một người nhạc sĩ nào mà sự ra đi của họ lại khiến công chúng thương tiếc nhiều đến như vậy.  Ông được an táng tại Nghĩa trang chùa Quảng Bình thuộc phường Bình Chiểu – quận Thủ Đức. Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm người nhạc sĩ tài ba này.

Vào năm 2001, nhà hát Hoà Bình cùng Hãng phim Phương Nam thực hiện Đại nhạc hội kỷ niệm 100 ngày mất của ông mang tên “Như một lời chia tay “. Sau đó các liveshow tưởng nhớ ông như “Đêm thần thoại” (2005) và “Rơi lệ ru người” (2007)” cũng được thực hiện.