Quán cơm Bà Cả Đọi – Hương vị món ăn trải qua nửa thế kỷ

Đăng ngày 20/07/2024

Tôi đã len lỏi qua khắp nẻo đường từ Nam chí Bắc nhưng chưa có một quán cơm nào gợi nhớ đến hương vị cơm nhà như quán Bà Cả Đọi. Nếu bạn có thói quen ăn uống giống như tôi, thích những món ăn đượm vì đồng quê của Kinh Bắc như thịt kho, dưa chua, trứng đúc,… thì quán cơm Đồng Nhân – Cơm Bà Cả Đọi chính là nơi bạn ít nhất phải ghé qua khi dừng chân ở Sài Gòn. Ở đây có những món ăn miền Bắc chính hiệu, nhiều lúc đi qua đoạn đường Tôn Thất Thiệp tôi cũng phải tạt vào đây mà làm dĩa cơm thịt kho hột vịt hay húp tô canh cua rau đay của quán Bà Cả. Nhiều hôm gọi điện cho mấy ông bạn già, mấy ổng cũng nhắc lại vài chuyện cũ, hỏi tôi có còn đi ăn cơm ở quán Bà Cả không. Tôi bảo có thì mấy ổng nói nhớ ăn giùm mấy ổng tô canh cua rau đay nhá.

Quán cơm Bà Cả Đọi - Hương vị nao nức trong lòng người Sài Gòn

Bà Cả nổi tiếng nấu ăn ngon nhất vùng. Thời đó, cách đây cũng phải hơn 50 năm trước, các lãng tử, thi sĩ hay các ban nhạc trẻ ở Sài Gòn truyền tai rồi giới thiệu cho nhau về tiệm cơm Bà Cả Đọi. Bởi vì tiếng lành đồn xa nên quán bà đông khách vô cùng. Tôi còn nhớ theo những gì nhà báo Trường Kỳ kể lại trong Một thời Nhạc Trẻ, đó là vào khoảng tháng 2 năm 1968, khi mà xung đột chiến tranh diễn ra phức tạp nên chính quyền Sài Gòn lúc đó ra lệnh phải đóng cửa toàn bộ vũ trường và các phòng trà. Ký giả Trường Kỳ lúc đó đương là phụ trách biên tập chương trình nhạc trẻ diễn ra vào mỗi thứ 7, chủ nhật ở phòng trà Chez Jo Marcel hàng tuần tên “Hippies À Go Go”. Phòng trà nằm ở địa chỉ số 67 Nguyễn Huệ lúc bấy giờ. Về chương trình ca nhạc “Hippies À Go Go” thì đó là chương trình ca nhạc ăn khách ở phòng trà của Sài Gòn từ những năm 1967 đến năm 1971.

Lúc các phòng trà đóng cửa, ông Trường Kỳ coi như cũng đang là “thất nghiệp tạm thời”. Vì vậy ông rảnh rỗi nên đâm ra hơi chán nản, bèn rủ người bạn đi tìm quán cơm bình dân mà nhiều người giới thiệu để đến ăn thử. Kể ra thì quán cơm cũng gần chỗ ông làm, cách có vài bước chân, địa chỉ ở số 53 Nguyễn Huệ. Ông và người bạn lững thững đi vô một cái ngõ hẹp, được cái ngõ không ngoằn ngoèo mà liền thẳng một mạch. Đi vô trong hẻm, ông thấy có vài căn nhà nhỏ cũ kỹ, quần áo người ta phơi đầy ở ban công hoặc giăng cái sào ở dưới để phơi. Trẻ con thì chạy nhảy cười đùa, không khí chung quanh hệt như một xóm làng ở miền quê Bắc Bộ, ông quan sát xung quanh, nhìn mãi cũng chẳng thấy căn nhà hay không gian nào nom giống tiệm cơm cả. Nhưng vì nghe bạn bè giới thiệu cũng như chắc chắn trong hẻm có quán ăn ngon lắm nên ông cũng ráng đi hỏi vài người xung quanh về thông tin quán cơm ấy. Nhờ hỏi thăm mà ông mới biết hóa ra quán cơm ấy không có bảng hiệu, cũng chẳng có tên tuổi, chỉ có những người trong xóm, hoặc những ai ăn ở quán rồi mới biết chỗ và chỉ cho nhau thôi. Để đến được quán ăn ấy, ông phải đi đến cuối hẻm, sau đó bước lên hơn mười bậc thang đổ bằng xi măng thì mới tới quán được.

Quà vặt vỉa hè Sài Gòn trước năm 1975 đến bây giờ vẫn khiến bạn chết thèm khi ngắm ảnh

Khi vào quán, gọi là quán cho sang chứ đó chỉ là một cái gác lửng, có một căn phòng rộng chừng 50 – 60m2, trong phòng có bày biện khoảng dăm ba cái bàn cùng với tấm phản rộng. Những nhóm đi chung với nhau mà ít người thì sẽ ngồi bàn với nhau, còn những nhóm nào đi đông thì sẽ ngồi trên phản. Khi vào quán, điều đập vào mắt ông đầu tiên là một chiếc bàn khá to, trên đó có rất nhiều thức ăn cùng với nhiều mùi hương hòa quyện vào nhau, thơm nức mũi làm ông thòm thèm. Có nhiều món ăn được bày ra trên bàn với những màu sắc đẹp đẽ cùng hương vị tuyệt vời như thịt kho, đậu hũ nhồi thịt, cá chiên, dưa chua,… và nồi canh đang sôi sùng sục trên bếp lửa. Bụng ông bắt đầu réo và ông gọi ngay cho mình một tô canh mồng tơi nóng hổi, một dĩa ốc giả ba ba, một dĩa thịt kho và một dĩa trứng đúc thịt để ông và bạn cùng thưởng thức. Đồ ăn ngay lập tức được bày ra trước mắt, ông xuýt xoa thử một miếng, cảm thấy như miếng thịt mềm như đang tan trong miệng. Cùng lúc đó cơm trắng nghi ngút khói được bày ra, ông và người bạn ăn liền một mạch, cuối cùng là húp tô canh rau mồng tơi, cứ thế mà chẳng mấy chốc ông cảm thấy no cả bụng.

Khách xung quanh quán đa số thuộc thành phần lao động, họ ăn uống thoải mái, cười nói rất vui vẻ. Các văn nghệ sĩ cũng đến đây vừa ăn vừa thảo luận công việc,… Tất cả tạo nên khung cảnh vô cùng thân thuộc.

Về phần mình, vì tính chất công việc nên ông thường ở các vũ trường, phòng trà, buổi trưa thì ăn uống qua loa cho qua bữa, ăn uống không có tí khoa học nào. Nay ông được ăn cơm nóng, canh sôi, lại là cơm nhà, không gian xung quanh vui vẻ cùng tiếng cười đùa nên ông cảm thấy ở đây như một gia đình, điều đó làm ông cảm thấy rất hạnh phúc.

Với tài nấu nướng tuyệt đỉnh và nấu ra những món ăn ngon hợp khẩu vị thực khách.  Mỗi lần bà tiếp đãi khách đến quán, trên gương mặt bà Cả lại nở nụ cười nhân hậu nên quán hầu như lúc nào cũng đông, một phần vì người ta kéo tới ăn cơm bà nấu, một phần vì yêu quý tính cách từ tốn, tốt bụng của bà. Khách tới quán của bà đủ mọi tầng lớp từ lao động, thi sĩ, nhà báo cho đến ca sĩ trước những năm 1975 cũng đến quán bà ăn và dần dần mọi người trở thành khách quen của bà. Có lẽ do một phần vì giữa chốn đô thị Sài Thành lại có quán ăn hương vị gốc Bắc nên người Bắc tìm đến quán ăn để đỡ nhớ cơm quê, còn người miền Nam thích tìm vị lạ nên đến quán của bà. Những món bà nấu chẳng có gì cầu kỳ cả, chỉ là thịt luộc cà pháo mắm tôm, đậu hũ chiên, heo giả cầy,… nhưng ai mà đã ăn cơm ở quán bà thì đảm bảo nhớ mãi không quên.

Ông Trường Kỳ còn cho biết thêm, gia cảnh bà Cả – bà chủ quán ăn khá là neo đơn. Chồng bà tên là Đinh Văn Viêm, là người làng Đồng Nhân. Làng này trước đây thuộc Thanh Trì tỉnh Hà Đông, hiện tại thuộc về Hà Nội. Lúc còn trẻ, ông vào Sài Gòn làm ăn một mình từ năm 1940. Đến năm 1948, ông đến tuổi trưởng thành nên cũng nghĩ đến chuyện cưới vợ sinh con, thân lại là con cả và nghe lời mẹ nên ông về quê và kết hôn với bà Hoàng Thị Túc rồi hai vợ chồng vào Nam sinh sống tại đất Sài Thành. Lúc đó ông bà sống ở căn nhà nhỏ trong hẻm 53 Nguyễn Huệ. Thuở đó xóm giềng xung quanh hay gọi hai vợ chồng bằng cái tên quen thuộc là ông bà Cả. Hai vợ chồng sau khi vào Sài Gòn thì làm ăn, sinh sống rồi lập nghiệp. Vốn chung sống hòa thuận, vợ chồng ông có với nhau 6 đứa con bao gồm 4 gái và 2 trai. Cứ tưởng cuộc sống như vậy là hạnh phúc, ngờ đâu một hôm trong lúc leo lên sửa mái nhà, ông Viêm trượt chân té ngã dẫn đến mất mạng, để lại đám con thơ cùng với người vợ hiền không nơi nương tựa. Mới chỉ khoảng 30 tuổi mà đã trở thành góa phụ, bà Cả thương chồng mà thương luôn cả mình, buồn bã, đau khổ và tuyệt vọng. Nhưng vì thương con, bà gắng gượng dậy và mở lại quán cơm Bắc từ những năm 1960 để có phí sinh hoạt qua ngày cũng như nuôi đàn con nhỏ. Bà Cả một mình tần tảo nuôi từng đứa con nên người.

Quán cơm Bà Cả Đọi - Hương vị nao nức trong lòng người Sài Gòn

Quay lại câu chuyện của ông Trường Kỳ, sau khi được bạn bè giới thiệu và tự mình thưởng thức những món ăn ở đây, ông đến quán nhiều hơn và cũng trở thành một trong số những người khách quen của quán. Ông trò chuyện với người nhà nhiều hơn, ông cũng bắt đầu biết tên những người con của bà Cả là cô Xuân, cô Hường, cậu Thuận. Khi nghe kể về chuyện của bà Cả, ông lấy làm khâm phục người mẹ Việt Nam tần tảo, cần cù, sẵn sàng hy sinh vì con vì cái. Còn những người con của bà cũng quen gọi ông Trường Kỳ là cậu Kỳ, một thanh niên với mái tóc dài lãng tử, quần ống bó, áo thun, trông có phần đặc biệt hơn so với những vị khách trước đó.

Nguồn gốc của cái tên “quán cơm Bà Cả Đọi”

Đến quán ăn nhiều lần nhưng thấy quán không có tên, ông Trường Kỳ bèn đưa ra ý kiến đặt tên cho tiệm, lấy tên là quán Bà Cả Đọi. Bà Cả thì hiểu nhưng còn “đọi” là gì, bà hỏi vị khách tinh quái kia thì nhận được câu trả lời “đọi” là cách nói lóng của từ “đói”, ý là mỗi lần đói quá là đến bà ăn cơm. Chuyện là cứ mỗi lần đến quán cơm, ông Trường Kỳ lại vừa xoa bụng vừa kêu: “Bà Cả, đói quá, đói quá” nhưng lại sửa giọng thành “Bà Cả, đọi quá, đọi quá”. Từ đó mọi người từ giới văn nghệ sĩ đến nhà báo truyền tai nhau rồi quen miệng gọi tên quán là Bà Cả Đọi luôn. Ấy thế mà lúc đề nghị lấy tên quán “Bà Cả Đọi”, bà Cả cười xòa nhưng không chịu cái tên ấy. Từ “đọi” ngoài ý nghĩa “đói” ra thì đó còn là tiếng lóng của những thanh niên hay nói chuyện với nhau thời đó, giống như cách nói chuyện của thanh niên trẻ bây giờ, nói như vậy để các bậc phụ huynh không hiểu ý nghĩa của câu nói. Ngôn ngữ tiếng lóng của những năm 60 hồi đó còn có cả những từ như địa – tiền, y – áo, quởn – quần, xế – xe máy,… Những từ này cho đến năm 1980 thì hầu như không còn sử dụng nữa, chỉ có lớp thanh niên chúng tôi hồi đó mới biết những từ lóng ấy thôi. Còn về từ “đọi”, ông Trường Kỳ cũng chỉ muốn tạo sự riêng biệt cho quán, nhưng mọi người truyền nhau gọi tên này nên nhiều người sau này còn tưởng “Cả Đọi” là một tên riêng.

Bà Cả vô cùng tốt bụng, trước khi về hẻm 53 Nguyễn Huệ mở tiệm cơm, bà ngày nào cũng để trên vai đôi quang gánh, ngồi ở phía đối diện bên kia đường để bán cơm, mỗi lần lấy cơm cho khách, bà đều cười, gương mặt bà Cả toát lên vẻ hiền hậu như bà tiên, ai nấy đều yêu mến bà. Lắm lúc những khách như sinh viên, nghệ sĩ, công nhân,… đến quán ăn nhưng mặt buồn thiu, bà hiểu ý, cười bảo: “Các cháu cứ ăn đi, ghi sổ hôm nào có tiền trả cũng được”. Bà có một cuốn sổ, trong đó ghi chằng chịt những cái tên. Cho đến sau này, những ai đã công thành danh toại, công việc ổn định đều nhớ đến những ngày được bà Cả cho ăn thiếu nên biết ơn và thường xuyên đến thăm bà. Sau này bà có căn nhà ở hẻm 53, lúc đó bà mới chuyển về đó rồi sau nhiều chuyện xảy ra, bà mở quán ăn, khách từ đó cũng đến đông hơn.

Với lại quán đông như vậy cũng coi như một phần có công lớn của cậu Kỳ, nhờ công “tiếp thị” của cậu mà người ta kéo đến quán Bà Cả nườm nượp. Ông dùng cách tiếp thị mà ông gọi là “vô tuyến truyền tai”, ông đem tên quán đi khoe khắp bạn bè trong giới ca sĩ của ông, rồi còn nói “Không biết quán Bà Cả Đọi, không phải dân chơi”. Thế là chỉ nhờ câu nói ấy, vài ngày sau, chúng ta không còn thấy cái hẻm 53 yên bình nữa, thay vào đó là các nam thanh nữ tú, tóc dài chấm vai, váy mini jupe đến hỏi thăm quán cơm Bà Cả Đọi. Chưa dừng ở đó, các ban nhạc trẻ Sài Gòn thời đó còn kéo nhau đến để ăn cơm tại quán. Các nhóm nhạc thời ấy phải kể đến là nhóm Ba Con Mèo bao gồm Uyên Ly, Kim Anh, Mỹ Hòa; nhóm Ba Trái Táo với Vy Vân, Tuyết Hương và Tuyết Dương. Sau khi nghe lời giới thiệu của cậu Kỳ, tất thảy cả làng nhạc trẻ Sài Thành lúc đó ai cũng được thưởng thức món ngon của quán Bà Cả. Còn về phía Trương Kỳ, ông chuyển vị trí bàn công việc sang quán cơm để vừa ăn vừa bàn chuyện tổ chức các đại hội nhạc với bạn nhạc của ông là Jo Marcel, Tùng Giang và Nam Lộc. Không những các ban nhạc trẻ mà còn có cả các ký giả báo Điện Ảnh, Kịch Trường như Ngọc Hoài Phương, Trần Quân cũng đến đây để thưởng thức tay nghề nấu nướng của Bà Cả. Đến cả giới điện ảnh, kịch nghệ, tài tử cũng tìm đến hẻm 53 Nguyễn Huệ để được ăn cơm Bà Cả nấu như tài tử Trần Quang hay diễn viên Tú Trinh. Dần dà quán đông khách đến bất ngờ và quán trở thành trung tâm tin tức của giới văn nghệ Sài Gòn lúc bấy gi

Sau này ông Trường Kỳ cũng đến tuổi lấy vợ, bạn bè trong giới nghệ sĩ cũng nhiều, ông Trường Kỳ cũng muốn mời cả Bà Cả. Nhưng mà ông cũng ngại vì ông chỉ là khách đến quán ăn còn bà Cả lại là chủ quán, không biết mời bà có tiện hay không. Nhưng rồi ông cũng gửi thiệp báo cho bà biết tin đám cưới của ông. Ấy thế mà trước ngày cưới vài hôm, bà đem quà mừng là một bao thơ đến cho ông Kỳ kèm lời chúc trăm năm hạnh phúc rồi về ngay. Dè đâu khi mở bao thơ ra là tiền mừng 5 “xín” (5000đ), số tiền ấy lớn hơn rất nhiều so với những vị khách dự đám cưới khác. Kết hôn xong, cậu Kỳ cùng vợ dắt nhau đến quán bà Cả và được bà đãi một bữa cơm thân mật.

Nửa thế kỷ vẫn đậm vị món ăn ngon

Cứ tưởng khách đến quán sẽ là những người trong giới ca sĩ trẻ sẽ không có gì thay đổi. Nhưng đến chừng giữa năm 1975, khi mà xã hội, chính trị thay đổi, mọi người trong ban nhạc cũng mỗi người một nơi, không còn ai đến quán Bà Cả nữa. May thay, nhờ tay nghề nấu ăn của bà nên danh tiếng của quán cơm còn mãi, những khách mới đến quán bà như tư thương ở khu chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, khách ở khu Chợ Cũ vẫn đến quán bà dùng cơm. Ai nấy đều thích đến quán để được ngồi trên phản, làm chén cơm nóng với đồ ăn ngon, cộng thêm chén canh cua rau đay ngon bá cháy. Lắm lúc quán cơm của Bà Cả đông khách, không kịp phục vụ nên thành ra khách khứa tới cũng phải ngồi đợi mới có cơm, đôi khi chờ lâu lắm mà không một ai cằn nhằn, ngược lại còn vui vẻ đợi chờ cơm ra để được húp sùm sụp tô canh mồng tơi ngon nhức nách.

Đến năm 1992, cậu Kỳ có dịp quay lại Sài Gòn liền ghé ngay đến quán cơm Bà Cả và được bà tiếp đón chu đáo. Sau khi hỏi chuyện, ông cũng biết thêm là cô con gái lớn của bà hiện nay đã tiếp quản quán cơm thứ hai trên đường Ngô Đức Kế, quận 1. Chuyện là đến khoảng chừng năm 1990, bà Cả không còn bán cơm ở căn nhà cuối hẻm 53 Nguyễn Huệ nữa mà chuyển đến địa điểm mới là số 11 Tôn Thất Thiệp, quận 1. Ở quán cơm có treo một bảng hiệu to ghi “Tiệm cơm Đồng Nhân” đi liền với bảng phụ kế bên ghi “Cơm Bà Cả”. Thời gian trôi qua, bà mở thêm quán ở đoạn ngã tư Lê Thánh Tôn – Trương Định, cũng ở quận 1 để con cháu trông nom. Bí quyết nấu ăn của bà cũng được truyền lại cho con cháu. Chỉ có điều có nhiều món thì vẫn giữ nguyên vị miền Bắc, một số món thì cũng lai vị miền Nam. Chẳng hạn như người Bắc họ thích ăn dưa cải có vị hơi hăng, nhưng để người miền Nam có thể ăn được thì phải làm dưa cải có vị chua và chút ngọt Còn về phần hẻm 53 Nguyễn Huệ, mọi người cũng không còn ở trong đó nữa, khu nhà đó toàn bộ đã bán cho công ty bất động sản.

Năm tháng qua đi, ai rồi cũng phải về với đất mẹ, cả ông Trường Kỳ và bà Cả cũng thế. Ông Trường Kỳ mất năm 2009, bà Cả yên nghỉ năm 2016. Khi nhắc đến quán cơm Bà Cả Đọi, người ta cảm giác như đang kể một câu chuyện của chính người thân mình. Đặc biệt hơn, ta còn hiểu thêm về sự thân thiện của chủ quán và khách hàng, là nét đẹp trong tính cách của người Sài Gòn xưa. Tôi may mắn cũng là một trong những vị khách quen của quán Bà Cả, được thưởng thức món ngon đậm vị quê nhà chan chứa tình yêu thương này. Chắc hẳn những ai từng ăn ở tiệm cơm Đồng Nhân – Cơm Bà Cả cũng sẽ giống như tôi, không quên được hương vị đậm đà ấy đâu nhỉ?