Nhắc đến Lê Thương người yêu nhạc sẽ nghĩ ngay đến hai nhạc phẩm bất hủ của ông, đó là “Hòn vọng phu” và “Bản đàn xuân”, hai nhạc phẩm này từng “vang bóng một thời” và đến bây giờ vẫn được nhiều người biết đến. Ông còn là một trong những nhạc sĩ tiên phong của nền Tân nhạc Việt Nam thời tiền chiến. Nhạc sĩ Lê Thương được khán thính giả ghi nhớ qua những tác phẩm đã gắn bó với tâm tình của xã hội từ hơn bốn thập niên qua.
Lê Thương sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914, tại phố Hàm Long, Hà Nội, ông tên thật là Ngô Đình Hộ. Tuy nhiên theo hồi ký của Phạm Duy thì nhạc sĩ Lê Thương sinh năm 1913 và là một thầy tu nhà dòng hoàn tục. Về thân thế và chi tiết cuộc đời của nhạc sĩ Lê Thương ít người biết rõ và ít thấy được nhắc đến, chắc có lẽ vì bản tính ít phô trương và lối sống giản dị của ông.
Lúc còn ở Hà Nội, Lê Thương theo học trường Nhân Bắc, cho đến năm 1935 ông chính thức trở thành nhà giáo, đi dạy học rồi sau đó ông chuyển về Hải Phòng và dạy học tại đây. Cũng trong thời gian này Lê Thương cùng với Hoàng Qúy, Hoàng Phúc ( nhạc sĩ Tô Vũ), Canh Thân, Phạm Ngữ làm thành một nhóm ca nhạc sĩ trẻ bắt đầu sáng tác và hát phụ diễn cho các buổi diễn kịch nói của nhóm kịch Thế Lữ tại Hải Phòng hoặc theo đoàn lưu diễn ở Hà Nội, Vĩnh Yên.
Năm 1938, trên mặt Báo Phong Hóa độc giả và người yêu âm nhạc thấy xuất hiện ca khúc “ Bản Đàn Xuân” của Lê Thương. Hiện có nhiều người cho rằng, “ Bản Đàn Xuân” là ca khúc đầu tay của ông, tuy nhiên có nhiều ý kiến khác cho rằng ca khúc “ Tiếng đàn âm thầm” được Lê Thương viết năm 1934 mới là sáng tác đầu tay của ông. Nhưng dù là ý kiến nào đúng thì chúng ta cũng có thể chắc chắn khẳng định rằng, ca khúc “ Bản Đàn Xuân” là nhạc phẩm đầu tiên đưa tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương đến với khán thính giả, đó cũng là nhạc phẩm nổi tiếng đầu tiên của ông và cũng là ca khúc đầu tiên của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam được ghi nhận là thành công về chủ đề mùa xuân mà cho đến ngày nay vẫn được nhiều nghệ sĩ trình diễn mỗi dịp tết đến, xuân về.
Trong thời kỳ còn ở miền Bắc, Lê Thương ngoài sáng tác “ Bản Đàn Xuân” ông còn sáng tác một số nhạc phẩm khác được chú ý đến như: Tiếng đàn đêm khuya, Một ngày xanh, Trên sông Dương Tử, Thu trên đảo Kinh Châu…
Năm 1941, Lê Thương vào miền Nam. Ban đầu ông về sống ở Bến Tre, một thời gian sau ông chuyển về sống tại Sài Gòn. Tuy lúc ấy ông đã là một nhạc sĩ có danh tiếng nhưng nghề chính của ông vẫn là dạy học. Ông từng là giáo sư Sử Địa và giảng dạy tại một số trường trung học tư ở Sài Gòn. Vào thập niên 1960, ông từng là giáo sư dạy Pháp ngữ tại trường trung học Pétrus – Ký. Ngoài ra, Lê Thương từng có khoảng thời gian làm công chức ở Trung tâm Học liệu, bộ Quốc gia Giáo dục và là giảng viên của Trường Quốc Gia Âm nhạc và Kịch nghệ.
Trong thời gian đầu định cư ở miền Nam, Lê Thương ngoài dạy học ông còn tham gia nghệ thuật, ông đã cho ra đời một số ca khúc mà chủ yếu là phổ thơ như: Lời kỹ nữ (thơ Xuân Diệu), Lời vũ nữ (thơ Nguyễn Hoàng Tư), Bông hoa rừng (thơ Thế Lữ), Tiếng thùy dương (tức Ngậm ngùi thơ Huy Cận) và Tiếng thu (thơ Lưu Trọng Lư)… Nhưng không được chú ý lắm, mãi cho đến khi Lê Thương cho ra đời bộ tổ hợp liên khúc “ Hòn Vọng Phu” thì lúc này tài năng và tên tuổi của ông mới thật sự chói sáng và chinh phục được giới chuyên gia âm nhạc. “ Hòn Vọng Phu 1” được nhạc sĩ Lê Thương sáng tác vào năm 1943 tại Bến Tre. Năm 1946, ông sáng tác tiếp “ Hòn Vọng Phu 2” ( hay còn gọi là “Ai xuôi vạn lý”). Đến năm 1947, Lê Thương kết thúc tổ hợp liên khúc bằng “ Hòn vọng phu 3”. Đối với tổ hợp liên khúc “ Hòn Vọng Phu” của nhạc sĩ Lê Thương được cho là đã đánh dấu bước phát triển cao nhất của những thủ pháp viết ca khúc và phát triển ngũ cung. “Hòn Vọng Phu” là một câu chuyện tình có tính chất sử thi, nội dung được khai thác từ các tích truyện về một người đàn bà bồng con chờ chồng trong văn học cổ, từ truyện dân gian về nàng Tô Thị tới tác phẩm thơ “ Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm.
Cho đến nay, tổ hợp liên khúc “ Hòn vọng phu” của nhạc sĩ Lê Thương vẫn được xem là chùm tác phẩm lớn của nền tân nhạc Việt Nam. Chính nhạc sĩ Văn Cao cũng từng thừa nhận ông đã ảnh hưởng Lê Thương trong việc học tập và kế thừa nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Lê Thương xứng danh là nhạc sĩ tiên phong của nhiều thể loại âm nhạc. Trong thời kỳ kháng chiến, ông có soạn một ca khúc rất nổi tiếng đó là bài Lòng mẹ Việt Nam hay Bà Tư bán hàng nói về một bà mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài hát đó là một trong những lý do Lê Thương bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng với Phạm Duy và Trần Văn Trạch vào năm 1951.
Lê Thương còn là người nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết nhạc hài hước với những tác phẩm như: Hoà bình 48 (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), Làng báo Sài Gòn (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), Đốt hay không đốt (châm biếm máu Hoạn Thư), Liên Hiệp Quốc… Vào những năm thập niên 1940, những bản nhạc này được nghệ sĩ Trần Văn Trạch trình diễn nhiều lần vào. Không những thế, Lê Thương còn đặt lời cho những bản nhạc ngoại quốc ngắn như: Bông hoa dại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc Lào), Lòng trẻ trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa anh đào tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản), Màn Brúc đánh giặc (dân ca Pháp)…
Có một khoảng thời gian, nhạc sĩ Lê Thương cùng nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân ca, bài ca nhi đồng. Đồng thời ông cùng Nguyễn Xuân Khoát được xem như những nhạc sĩ mở đầu của dòng nhạc dành cho thiếu nhi với những bản Tuổi thơ, Cô bán bánh, Con mèo trèo cây cau, Thằng bé tí non, Ông Nhang bà Nhang, Truyền kỳ Việt sử, Học sinh hành khúc… Nổi tiếng hơn cả là bài Thằng Cuội thường được trẻ em hát trong mỗi dịp tết Trung Thu, mặc dù nhiều người không biết đó là một ca khúc được sáng tác bởi nhạc sĩ Lê Thương.
Nhạc sĩ Phạm Duy từng viết trong hồi ký của mình như sau: “ (…) Lê Thương làm thơ, làm nhạc rất bay bướm nhưng anh có cuộc sống rất giản dị… Vào những năm đầu của cuộc chiến Nam Bộ, cũng như hầu hết những người trai của thời đại, Lê Thương có những đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chống xâm lăng, giành tự do, độc lập của toàn thể nhân dân.. Lê Thương cũng là người chuyên soạn nhạc cho thiếu nhi, thiếu niên qua những bài “ Thằng Cuội”, “ Tuổi thơ”… Bìa “ Bà Tư bán hàng” và bài “ Học sinh hành khúc” phổ biến đến độ có những câu nhại… Tôi vẫn quan niệm bài hát nào có lời ca nhại là bài hát thành công nhất”.
Ngoài hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc, Lê Thương còn gia nhập vào ban kịch của Thế Lữ vào những năm thập niên 1930, và ban kịch Sầm Giang của Trần Văn Trạch khi ông sống ở Sài Gòn. Lê Thương cũng đã sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và viết nhạc phim cho hãng phim Mỹ Vân.
Nhạc sĩ Lê Thương kết hôn cùng một phụ nữ học ở Pháp về và họ có với nhau chín người con. Ông cũng từng có hai người tình, người tình đầu là một cô ả đào nổi tiếng ở Hà Nội. Người thứ hai là một vũ nữ tại Chợ Vườn Chuối Sài Gòn.
Sau năm 1975, ông không tham gia hoạt động nghệ thuật nữa. Vào thập niên 1990, ông dường như bị mất hẳn trí nhớ và qua đời ngày vào ngày 17 tháng 9 năm 1996 tại Thành Phố Hồ Chí Minh.