Đôi nét về sự nghiệp của nhạc sĩ Võ Đức Thu (1911-1964)

Đăng ngày 30/08/2024

Nhạc sĩ Võ Đức Thu được biết đến là một trong những tên tuổi lẫy lừng của nền tân nhạc Việt Nam. Ông được công chúng biết đến qua những sáng tác nổi tiếng như: Quyết Tiến, An Phú Đông, Tống Biệt (phổ thơ của thi sĩ Tản Đà),… Ngoài ra, ông còn là một giáo sư dương cầm, một soạn giả âm nhạc. Ông là người có hiểu biết sâu rộng về các loại nhạc Tây Phương, từ loại nhạc cổ điển (musique classique), đến loại nhạc bình dân (populary music) mà ta thường gọi là nhạc jazz.

Nhạc sĩ Võ Đức Thu sinh năm 1911 tại Sài Gòn, cha ông là Võ Đức Điềm, giáo sư trường La San Taberd. Cả nhà ông đa số đều theo nghệ thuật ví như các em ông gồm Võ Đức Tuyết, Võ Đức Phấn, tác giả bài “Cùng Một Kiếp Hoa”, Võ Đức Hảo tác giả bài “Có Những Người Anh”.

Đôi nét về nhạc sĩ Võ Đức Thu - Nhạc sĩ tiên phong của tân nhạc Việt

Nhạc sĩ Võ Đức Thu chia sẻ rằng ông bước vào ngành nhạc một phần lớn là do thân phụ của ông: “Người xuất thân tại trường Taberd, được học hỏi về đàn vĩ cầm và phong cầm với các sư huynh của trường, rồi sau dạy tại trường này và được trau dồi nghệ thuật thêm. Ngoài giờ dạy học, người thường đi hoà nhạc chung với các nhạc sĩ ngoại quốc tại Hotel des Nations.” Nhờ thế mà Võ Đức Thu được học đàn từ khá sớm. Năm 7 tuổi ông đã được học đàn dương cầm và theo lớp hàm thu Sinat (phần lý thuyết), bài học do Cha ông giảng lại.

Năm 1925, Sài Gòn bắt đầu mở trường dạy Âm nhạc, mang tên École de Musique de Saigon, thường được gọi là Philharmonique, sau này là trường Quốc Gia Âm nhạc; dưới sự hướng dẫn của một giáo sư ngoại quốc; Võ Đức Thu may mắn trở thành người Việt duy nhất được theo học lớp dương cầm với các học sinh ngoại quốc, mặc dù tuổi vẫn còn nhỏ. Với sự chỉ dạy tận tình của giáo viên cùng với sự chăm chỉ tập luyện và năng khiếu sẵn có, Võ Đức Thu đã đạt được giải danh dự về dương cầm (Prix d’Honneur de Piano) khi mới 14 tuổi.

Với niềm đam mê âm nhạc sẵn có, Võ Đức Thu còn ngỏ ý với cha ông muốn sang Pháp để được tiếp tục học tại Nhạc viện quốc gia Pháp, nhưng vì lúc ấy gia đình ông không mấy dư giả, nên ông phải tiếp tục học nhạc ở trong nước. Tuy nhiên sau đó ông được cho theo học riêng với bà Armande Caron vốn giỏi nhứt về dương cầm và hòa âm Nhạc viện quốc gia Pháp. Trong những năm tháng thiếu niên, ông thường được các ban nhạc ngoại quốc, mời đệm dương cầm trong những buổi hòa nhạc tại nhà Hát lớn Đô thành và tại Philharmonique.

Đến năm 1937, Võ Đức Thu bắt đầu mở lớp dạy dương cầm, số lượng nhạc sinh theo học rất đông, không chỉ có người Việt theo học mà còn có cả người Pháp, người Hoa, người Ấn, người Nhật, người Hoa Kỳ, trong số đó còn có một số người Việt đã được học ở nước ngoài, đã thành tài và đã nổi danh, như nhạc sư Nghiêm Phú Phi và ca sĩ Khánh Ngọc khi mới bước chân vào miền Nam.Ngoài những giờ dạy nhạc trên lớp, Võ Đức Thu còn gia nhập một ban nhạc ngoại quốc để hòa nhạc mỗi buổi chiều tại Khách sạn Palace để kiếm thêm thu nhập nhưng đây cũng là một dịp may để cho ông học hỏi thêm về nhạc Cổ điển Tây phương, vì ban nhạc này gồm có những nhạc sĩ nổi tiếng như Yvonne Leclerc (đoạt giải nhất về violon Nhạc viện Quốc gia Pháp), Renée Bondie (đoạt giải nhất về violon Nhạc viện Toulouse), Becchi (tốt nghiệp Nhạc viện Milan về violoncello), Charles Roques (đoạt giải nhất về bassoon Nhạc viện Quốc gia Pháp).

Võ Đức Thu – Wikipedia tiếng Việt

Năm 1940, Võ Đức Thu chịu trách nhiệm thành lập ban nhạc cho hội Đức Trí Thể Dục, những thành viên gồm toàn những người Việt và ông cũng là người điều khiển ban nhạc này trình diễn vào những buổi lễ, buổi hát do hội tổ chức tại hội quán và tại nhà hát lớn Đô thành.

Năm 1941, Võ Đức Thu mới bắt đầu soạn nhạc, ông cho biết mình chú trọng về thể loại nhạc thuần tuý nhằm nâng cao trình độ thưởng thức nhạc của khán thính giả Việt. Các nhạc phẩm của ông đã được các nhà xuất bản trong và ngoài nước ấn hành như Tinh Hoa, An Phú, Hương Thu, Huỳnh Lâm, SEMI (Société d’Editions de Musique Internationale) – Hội các nhà xuất bản Quốc tế về Âm nhạc.

Riêng các sáng tác thuộc các thể loại hòa tấu khúc, độc tấu dương cầm, song tấu dương cầm và vĩ cầm đã được chính ông trình diễn nhiều lần trên các sân khấu lớn như: các nhà hát ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang, Huế, Hải Phòng, Hà Nội. Bên cạnh đó những sáng tác của ông còn được Trần Văn Khê, Võ Đức Lang trình bày ở Pháp.

Từ năm 1948 – 1951, nhạc sĩ Võ Đức Thu cùng nhạc sĩ Lê Thương đã đưa “Xuân Thu nhạc kịch” ra mắt khán giả tại các nhà hát lớn ở Hà Nội và tại Nam Vang.

Những năm 1951, 1953, 1954, nhạc sĩ Võ Đức Thu thường được mời trình tấu nhạc tại các nhà hát lớn Huế, Hải Phòng, Hà Nội với ban hợp ca Thăng Long và ban Gió Nam.

Năm 1955, nhạc sĩ Võ Đức Thu dự Hội Chợ Triển Lãm Quốc Tế tại Nam Vang cùng phái đoàn Văn nghệ Việt Nam, ông được vinh dự bầu làm chủ tịch bộ môn Tân nhạc trong Đại hội Văn hóa toàn quốc

Năm 1958, ông viết nhạc cho hai cuốn phim Việt mang tên “Sự Tích Trầu Cau” và “Áo Dòng Đẫm Máu” do hãng Mỹ Vân sản xuất.

Năm 1959, ông đứng ra tổ chức một ban nhạc Biệt thể cho đài phát thanh Quốc gia và đài phát thanh Quân đội.

Bên cạnh những hoạt động trên, nhạc sĩ Võ Đức Thu còn từng là giám khảo tuyển lựa ca sĩ trên Đài Phát thanh Sài Gòn.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, vào cuối thập niên 40, ông bắt đầu sáng tác những ca khúc thuộc thể loại hùng ca như: Quyết Tiến; Việt Nam, Việt Nam; Chiến Sĩ Bất Diệt. Trong đó ca khúc Quyết Tiến của ông đã trở thành một ca khúc quen thuộc trong giới sinh viên học sinh, Hướng Đạo Sinh thời bấy giờ, thường được vang lên trong những lần sinh hoạt tập thể. Ca khúc Quyết Tiến với bản thu đầu tiên qua tiếng hát Hải Minh – nghệ danh của giáo sư Trần Văn Khê.

Ngoài ra, ông còn có các nhạc phẩm nổi tiếng khác như “Lửa Dũng” và “An Phú Đông”, sau khi ra mắt đã được khán giả khắp nơi ủng hộ nồng nhiệt. Hay những ca khúc nhẹ nhàng như: Bình Minh Ca Khúc, Đồng Quê, Tống Biệt, Nhớ Người Xa Vắng,… cũng được khán thính giả đặc biệt yêu thích.

Trước khi soạn những ca khúc nghệ thuật với lời ca trau chuốt, nhạc sĩ Võ Ðức Thu đã sáng tác nhiều bản độc tấu cho dương cầm, nhưng tiếc là nay đều thất lạc.

Ngày 1 tháng 9 năm 1964, nhạc sĩ Võ Đức Thu qua đời do căn bệnh gan tại nhà riêng nằm trên đường Bùi Chu (nay là Tôn Thất Tùng).