Khi nhắc đến những tuyệt phẩm âm nhạc như: Chiều về trên sông, Cỏ hồng, Đường chiều lá rụng, Đường sáo Thiên Thai, Đường em đi…người ta liền nhớ ngay đến người nhạc sĩ đa tài với số lượng ca khúc sáng tác đồ sộ và nhiều ca khúc trường tồn mãi với thời gian – Phạm Duy – Người đã có những đóng góp to lớn cho nền âm nhạc Việt Nam. Ông dành cả cuộc đời cho tình yêu âm nhạc. Phạm Duy là nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn và có sức ảnh hưởng nhất của nền tân nhạc nước nhà với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, nhiều ca khúc của ông trở thành kinh điển và gắn liền với những giọng ca tên tuổi của tân nhạc như Thái Thanh, Lệ Thu, Tuấn Ngọc, Khánh Ly,…
Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn sinh năm 1921 tại Hà Nội trong một gia đình nghệ thuật. Cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn, người được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới, đầu thế kỷ XX. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư – thạc sĩ, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine. Anh thứ Phạm Duy Nhượng là nhạc sĩ, tác giả ca khúc Tà áo Văn Quân. Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc, tác giả cuốn Tục ngữ phong dao. Học giả Trần Trọng Kim từng nhận ông làm con nuôi.
Lúc còn nhỏ, Phạm Duy là một cậu bé hiếu động, tinh nghịch tuy nhiên rất đam mê âm nhạc, Ông học và biết cách dùng guitar, mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó ông còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh…
Phạm Duy học lớp vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi ( nay là trường Nguyễn Du). Ông học không giỏi, tính lại nghịch ngợm nên thường hay bị phạt. Đến năm 1934, khi ông 13 tuổi , ông vào được lớp nhất, lúc bấy giờ ông mới học giỏi dần và trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp. Phạm Duy chỉ học bốn năm tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài mà ông được học trong sách Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, đã in đậm trong tâm thức của ông trước khi bước vào xã hội, hình thành cho ông quan điểm về “đức độ của con người Việt Nam” mà ông nhấn mạnh rằng “con người ở nông thôn”, chứ không phải ở thành thị.
Năm 1936, sau khi ông thi trượt Trường Bưởi, ông vào học trường Trung học Thăng Long, một trong những trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến…những nhân vật có tên tuổi sau này. Trong lớp học cùng ông lúc bấy giờ có Quang Dũng, người sau này trở thành nhà thơ nổi tiếng. Trong một năm học trung học tại trường Thăng Long, ông hấp thụ được nhiều cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre…
Năm 1937, ông học nghề sắt (nguội, tiện, rèn) tại Trường Bách Nghệ (Trường Kỹ nghệ Thực hành Hà Nội). Học chưa hết một niên khóa thì năm 1938 vì đánh nhau, vi phạm kỷ luật nên ông bị đuổi học.
Năm 1938, ông xin vào làm việc ở Hiệu sửa radio tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Cuối năm 1939, thì đi Móng Cái làm việc ở Nhà Máy điện, làm thợ rèn rồi coi lò than, sau đó 5 tháng ôngs bị bệnh nám phổi phải vào nhà thương chữa bệnh.
Giữa năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương do thầy Tô Ngọc Vân giảng dạy, học chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng,… Tuy nhiên, học được một thời gian ông nhận ra mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa nên học được khoảng một năm ông nghỉ học.
Năm 1941, ông về Hưng Yên sống với mẹ, tại nhà anh trai Phạm Duy Nhượng, anh trai ông đang làm thầy giáo tại đây. Sau được một người anh họ xa tên là Ninh, làm nghề lục sự tại Tòa án đưa ông vào làm thư ký, làm được một thời gian ông cũng bỏ việc. May mắn thay ông được Tuần phủ Lê Đình Trân nhận làm con nuôi, lo việc kèm học cho 2 em nhỏ.Về sau ông Trân được thăng làm Tổng đốc, đi trấn nhậm tỉnh Kiến An, Phạm Duy cũng đi theo cha nuôi của mình.
Năm 1942, ông bắt đầu sáng tác nhạc và cho ra đời tác phẩm đầu tay là “Cô hái mơ“, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong giai đoạn phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ.
Năm 1943, Phạm Duy được giao cho việc trông coi đồn điền của gia đình Tổng đốc Lê Đình Trân tại Yên Thế, Bắc Giang. Một thời gian sau ông quay về Hà Nội để tham gia Gánh hát Đức Huy đang thành lập. Gánh hát biểu diễn ra mắt tại Hải Phòng rồi Nam tiến, có nhiều lúc biểu diễn ở tận Campuchia. Tuy rằng không gắn bó với nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau giúp ông cọ sát với cuộc sống thường nhật, tạo nên chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này.
Năm 1944, ông trở thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều (Ngô Nhật Huy). Trong thời gian làm việc ở gánh hát, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông,… và nhạc sĩ Văn Cao, người mà sau này trở thành một người bạn tâm giao trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Ông là người giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc và cùng với Văn Cao sáng tác hai nhạc phẩm: Bến Xuân, Suối Mơ.
Khi còn ở gánh hát Đức Huy – Charlot Miều, với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu về ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã viết:
“… Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(…) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (…) Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (…) Bài Buồn tàn thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (…) đưa cái bài Buồn tàn thu tới những tâm hồn mong mỏi (…)
… Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (…) Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (…)”
Trong giai đoạn này, nhạc sĩ Văn Cao ví von gọi Phạm Duy là “kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn”. Ông đã từng hát riêng cho vua Bảo Đại nghe trong chuyến lưu diễn ở Phan Rang.
Giữa năm 1945 Phạm Duy rời gánh hát Đức Huy đến ở nhờ nhà một người bạn tại khu DaKao (Tân Định), Sài Gòn. Ông sinh sống, đi hát tại Sài Gòn rồi tham gia Thanh niên Tiền phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ trang Tuyên truyền. Tháng 10/1945, ông rời Tân Định về Hà Nội.
Đầu năm 1946, ông được huấn luyện quân sự cấp tốc rồi sau đó được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Ông được phân công vào chiến khu Bà Rịa – Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu Thu năm 1946 ông bị thương nhẹ ở cánh tay nên được phép về Bắc.
Tháng 12.1946, Phạm Duy làm việc tại Đài Phát thanh bí mật ở Hà Đông, sau đó tham gia Đoàn Văn nghệ Giải phóng tại Sơn Tây rồi tiếp tục đi phục vụ văn nghệ ở các tỉnh Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Sau ông ở lại Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy (một cơ sở tình báo). Nhưng ít lâu sau ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn (qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên) khoảng tháng 10/1947, rồi quay lại Thái Nguyên; thời gian này hai ông làm việc cho Cục Chính trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy. Cuối 1947 hai ông từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, rồi tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1948. Trong thời kỳ theo kháng chiến, với cây đàn guitar, Phạm Duy tiếp tục đem giọng hát của mình phục vụ anh em chiến sĩ, mà theo Tạ Tỵ nhận xét tiếng hát Phạm Duy lúc này “mang một âm hưởng khác, một nội dung khác, ở đó, Duy không còn là kẻ đứng ngoài hát cho người khác nghe, mà nó chính là tiếng thét oai hùng của một thế hệ thanh niên đã ý thức được vai trò của mình trong lịch sử”
Giai đoạn 1945 – 1946, ở trong vùng kháng chiến,ngoài ca hát, ông còn sáng tác nhiều thể loại hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu.. Bên cạnh đó là những bài nhạc tình đầy lãng mạn như: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya….
Giai đoạn 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác những ca khúc mang âm hưởng dân ca, theo ông cho rằng: “Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sĩ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị… Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa”, từ đó cho ra đời thể loại mà ông gọi là “Dân ca mới” gồm những bài hát: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều…
Nhạc Phạm Duy ở giai đoạn kháng chiến chủ yếu là những bài nhạc hùng, thường mang tính chất lạc quan, vui tươi: Gánh lúa, Đường ra biên ải…, hay ca ngợi kháng chiến, ca ngợi công lao của Hồ Chí Minh như Bên ni bên tê, Ngọn trào quay súng, Đường về quê. Từ năm 1948, Phạm Duy bắt đầu khai thác đề tài về sự gian khổ của cuộc kháng chiến. Đề tài này là chủ đề chính trong những ca khúc như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru…, lời bài hát mang tới những câu chuyện, hình ảnh của chốn thôn quê và nỗi gian khổ của người dân quê trong thời chiến tranh.
Không lâu sau, Phạm Duy tham gia Đoàn Văn nghệ Quân đội Liên khu IV, trực thuộc Trung đoàn 304, tại đây ông gặp gỡ và nảy nở tình yêu với ca sĩ Thái Hằng, sau đó họ đính hôn, Phạm Duy cùng một số nghệ sĩ đi phục vụ thực tế tại Nghệ An, Hà Tĩnh rồi đi Bình – Trị – Thiên (đi đường rừng, đồng bằng và quay về bằng đường biển).
Năm 1949 Phạm Duy quay về Thanh Hóa, ông và Thái Hằng cưới nhau, người chủ trì hôn lễ cho hai vợ chồng là tướng Nguyễn Sơn. Năm 1950, cả 2 vợ chồng ra Việt Bắc (đi qua Hòa Bình, Vĩnh Yên, Thái Nguyên, Bắc Cạn) và tham dự Đại hội Văn hóa Toàn quốc. Sau đó ông và vợ từ bỏ, ra khỏi các đoàn văn nghệ quân đội và quay về lại Thanh Hóa.
Năm 1951, ông đưa vợ và con vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, ông bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, nên ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat trong 120 ngày.
Năm 1952, ông theo khuynh hướng sáng tác “Tình ca quê hương” và cho ra đời “Tình hoài hương” tại Sài Gòn: “Sau khi nói lên vinh quang và nhọc nhằn của dân tộc với nhạc kháng chiến, bây giờ tôi đi vào tình tự quê hương..” Ca khúc tiếp theo mà ông sáng tác là Tình ca; hai nhạc phẩm này được đông đảo người dân yêu thích và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương.
Cuối năm 1952, ông sang Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, ở đây ông gặp và chơi thân với Trần Văn Khê, người mà sau này đã trở thành giáo sư dân nhạc nổi tiếng. Trong thời gian du học tại Pháp (1952–1954), ông thai nghén bản trường ca đầu tiên của mình, với ý muốn phản đối việc chia đôi đất nước.
Sau hai năm học xong, ông về Việt Nam thì lúc này đất nước đã bị chia cắt bởi hiệp định Genève. Từ đó, ông ở lại miền Nam tiếp tục sáng tác ca khúc và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với các ca sĩ như Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Lúc này ngoài một số bài mang âm hưởng dân ca, ông tiếp tục đi sâu vào nhạc tình yêu đôi lứa, qua nhiều cung bậc hạnh phúc, đau khổ, nhớ thương: Đừng xa nhau, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Thương tình ca, Kiếp nào có yêu nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Còn gì nữa đâu… Và từ đó đi sâu hơn vào việc khai thác những trạng thái tư tưởng, với những bài hát nói về “Tình yêu – Sự đau khổ – Cái chết”, ba điều quan trọng nhất lúc đó của ônng, những ca khúc của giai đoạn này có thể kể đến Nước mắt rơi, Đường chiều lá rụng, Tạ ơn đời, Một bàn tay. . Cũng trong thời gian này ông tham gia những hoạt động trong ngành sân khấu, thông tin đại chúng như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim đồng thời ông cũng cộng tác với đài Phát thanh.
Năm 1954, Phạm Duy cho ra đời bộ ba ca khúc: Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, được xây dựng bằng nhạc thuật dân ca trước đây, những bài này phổ biến tại miền Nam và theo Phạm Duy: “nó được các lớp nhạc sĩ trẻ như Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Duy Khánh, Trần Thiện Thanh tức Nhật Trường… hưởng ứng để soạn ra những bài mà họ gọi là dân ca mambo bolero”.
Giai đoạn này ông vẫn tiếp tục với các bài dân ca mới như: Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo… Bên cạnh đó những sáng tác : Thuyền viễn xứ, Viễn du, Hẹn hò nói về sự chia lìa quê hương, chia lìa đôi lứa trong những ngày đất nước Việt Nam sắp sửa chia đôi bởi hiệp định Geneva. Bên cạnh đó còn có những ca khúc lấy cảm hứng từ thiên nhiên: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì…
Năm 1956, dấy lên vụ ngoại tình giữa ông và ca sĩ Khánh Ngọc là vợ của em vợ ông là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, vụ việc này trở thành một đề tài gây xôn xao và tranh cãi trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Sau vụ việc đầy tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với ban hợp ca Thăng Long nữa. Trong lúc tinh thần suy sụp, ông bước vào mối tình đặc biệt với Alice, con gái của Helen, người tình nhân cũ của ông. Được biết đây là mối tình “giữa hai tâm hồn”, “không đụng chạm thể xác”, được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác ra nhiều tác phẩm nhạc tình giá trị như: Chỉ chừng đó thôi, Thương tình ca,….
Sau khi không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Phạm Duy làm đạo diễn bộ phim Hai người mẹ theo lời mời của ông Đỗ Bá Thế – Giám đốc Đông Phương films.Thời gian này ông thường xuyên lui tới quán Chùa (La Pagode) và gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, … Nhờ sự giúp đỡ của Võ Đức Diên và bạn bè ông được đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan ( Hồi ký Phạm Duy, tập III, chương 10).
Đầu thập niên 1960, sau khi VNCH được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, Phạm Duy cùng với các nghệ sĩ khác được cử đi Philippines, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với những kinh nghiệm bang giao, ông thường được góp mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ… Nhờ vào những cơ hội đó, mà ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.
Năm 1963, ông sáng tác bản trường ca Mẹ Việt Nam, đây là trường ca thứ hai sau Con đường cái quan đã hoàn tất trước đó. Hai tác phẩm này được coi là hai sáng tác lớn và thành công không chỉ trong tác phẩm của ông, mà còn trong nền âm nhạc Việt.
Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca và đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó cùng với những nghệ sĩ khác như: Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu,…
Đến năm 1966, với tiếng tăm của mình ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ Ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được vinh dự mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Không những thế, ông còn được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông trở lại Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để “giải độc dư luận Mỹ”. Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, để rồi ông cho ra đời ca khúc ”Kể chuyện đi xa”.
Cuối thập niên 1960, các con ông thành lập ban nhạc gia đình “The Dreamers”, ông cùng ban nhạc này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng ở Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền bản quyền và trở nên giàu có.
Đầu thập niên 1970 với sự tham gia của các con Duy Quang, Thái Hiền, ông có thêm những bản tình ca nhẹ nhàng lãng mạn thích hợp với tuổi thanh niên, sinh viên như Trả lại em yêu, Con đường tình ta đi, Thà như giọt mưa…. Ngoài việc tự sáng tác nhạc và lời, ông còn phổ thơ người khác thành những tác phẩm được đông đảo mọi người yêu mến, như bài: Ngày xưa Hoàng thị, Đưa em tìm động hoa vàng, tập nhạc “Đạo ca” (phổ thơ Phạm Thiên Thư), Thà như giọt mưa, cô Bắc kỳ nho nhỏ, Em hiền như Ma-soeur (phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên), Tiễn em, Mùa thu Paris (phổ thơ Cung Trầm Tưởng)… Bên cạnh đó, ông còn đặt lời Việt cho những ca khúc nước ngoài, nhiều ca khúc do ông đặt lời được coi là thành công như Dạ khúc (Stanchen của Schubert), Mơ mòng (Dreaming của Schumann), Khi xưa ta bé (Bangbang)…
Năm 1973, giai đoạn Phong trào nhạc trẻ đang lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh tham dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản nhạc Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết.
Cuối tháng 4 năm 1975, Phạm Duy cùng vợ và hai con gái di tản qua Hoa Kì, ông cùng gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức các đêm nhạc về mình.
Phạm Duy bắt đầu giai đoạn sáng tác mới ở Hải Ngoại của mình từ những ngày đầu ở Mỹ. Tác phẩm gần như xuyên suốt thời kỳ này là tổ khúc “ Bầy chim bỏ xứ”, được thai nghén từ năm 1975 và hoàn tất vào năm 1990, gồm 18 khúc nhạc, ẩn dụ về hình ảnh của những người Việt phải rời khỏi đất nước và hy vọng vào tương lai đoàn tụ, qua hành trình ra đi và trở về của đàn chim.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký về cuộc đời của mình, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông phải nhập viện một thời gian dài vì bị cao huyết áp. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến đi về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, TP. Hồ Chí Minh cùng các con trai của ông là Duy Quang và Duy Cường. Đến tháng 7, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra nhưng ông vẫn hoạt động âm nhạc.
Ngày 27/1/2013 người nhạc sĩ đại tài ra đi vĩnh viễn , tang lễ của Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, phường 3, Quận 11, TP.HCM. Ông yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.
Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử của đất nước, ông được coi là “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt Nam.